Phấn đấu 100% người dân có sổ sức khỏe điện tử từ năm 2030
100% người dân sẽ có sổ sức khỏe điện tử từ năm 2030; tỉ lệ xã, phường, đặc khu đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã là 90% vào năm 2030 và 95% đến năm 2035,...
Đây là những mục tiêu cụ thể tại dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026–2035 được Quốc hội đã chính thức thông qua sáng nay, 11.12.
Mục tiêu tổng quát của chương trình là bảo đảm mọi người dân đều được quản lý, chăm sóc sức khỏe ban đầu, phòng bệnh từ sớm, từ xa, ngay tại cơ sở, hạn chế bệnh tật; gia tăng tỉ lệ sinh, phấn đấu tỉ số giới tính khi sinh đạt mức cân bằng tự nhiên, thích ứng với già hóa dân số, nâng cao chất lượng dân số; tăng cường chăm sóc cho các nhóm dễ bị tổn thương; góp phần nâng cao sức khỏe thể chất, tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ và chất lượng cuộc sống của nhân dân, xây dựng một nước Việt Nam khỏe mạnh.

Chương trình đưa ra các mục tiêu cụ thể:
Góp phần thực hiện mục tiêu tỉ lệ xã, phường, đặc khu đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã là 90% vào năm 2030 và 95% đến năm 2035.
Phấn đấu tỉ lệ người dân được lập sổ sức khỏe điện tử và quản lý sức khỏe theo vòng đời đạt 100% từ năm 2030.
Tỉ lệ Trung tâm kiểm soát bệnh tật (CDC) các tỉnh, thành phố đủ năng lực xét nghiệm tác nhân, kháng nguyên, kháng thể các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, chất lượng nước sạch, vệ sinh trường học theo quy định của Bộ Y tế đến năm 2030 đạt 100%.

Tỉ lệ trạm y tế xã, phường, đặc khu trên toàn quốc triển khai thực hiện dự phòng, quản lý, điều trị một số bệnh không lây nhiễm theo hướng dẫn của Bộ Y tế đến năm 2030 đạt 100% và duy trì đến năm 2035.
Tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em dưới 5 tuổi đến năm 2030 giảm xuống dưới 15% và đến năm 2035 giảm xuống dưới 13%.
Tỉ suất sinh thô đến năm 2030 tăng thêm 0,5‰ so với năm 2025 và đến năm 2035 tăng thêm 0,5‰ so với năm 2030.
Tỉ số giới tính khi sinh đến năm 2030 giảm xuống dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống và đến năm 2035 giảm xuống dưới 107 bé trai/100 bé gái sinh ra sống.
Tỉ lệ cặp nam, nữ được tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn đạt 90% vào năm 2030 và 95% vào năm 2035; 70% phụ nữ mang thai được tầm soát ít nhất 4 loại bệnh tật bẩm sinh phổ biến nhất vào năm 2030 và 90% vào năm 2035; 90% trẻ sơ sinh được tầm soát ít nhất 5 loại bệnh bẩm sinh phổ biến nhất vào năm 2030 và đạt 95% vào năm 2035.
Số lượng người dễ bị tổn thương được tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tại các cơ sở chăm sóc xã hội đến năm 2030 tăng thêm 70% so với năm 2025 và đến năm 2035 tăng thêm 90% so với năm 2030.
Về kinh phí thực hiện Chương trình, tổng nguồn vốn thực hiện giai đoạn 2026-2030 là 88.635 tỉ đồng, trong đó:
Vốn ngân sách Trung ương (68.000 tỉ đồng), bao gồm vốn đầu tư công (39.200 tỉ đồng) và kinh phí thường xuyên (28.800 tỉ đồng);
Vốn ngân sách địa phương (20.041 tỉ đồng), bao gồm vốn đầu tư công (8.492 tỉ đồng) và kinh phí thường xuyên (11.549 tỉ đồng);
Nguồn vốn khác (dự kiến 594 tỉ đồng).
Trước đó, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan đã trình bày Báo cáo tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo nghị quyết
“Dự thảo nghị quyết quy định chính sách đặc thù theo hướng phân cấp, phân quyền cho các bộ, cơ quan trung ương và địa phương trong việc giao dự toán theo tổng vốn chương trình; được quyết định điều chỉnh kinh phí giữa các nội dung hoạt động trong tổng mức vốn được giao, nhằm bảo đảm thực hiện mục tiêu của chương trình” - Bộ trưởng Đào Hồng Lan nhấn mạnh.



















