A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Mối quan ngại cho sự độc lập của FED

Những đe dọa sa thải Thống đốc FED, bà Lisa Cook vì những cáo buộc sai phạm liên quan đến vấn đề cho vay thế chấp và áp lực không ngừng đối với Chủ tịch FED, ông Jerome Powell trong việc cắt giảm lãi suất đã và đang thử thách ranh giới quyền lực của Tổng thống đối với ngân hàng trung ương Mỹ và trở thành mối quan ngại đối với sự độc lập của ngân hàng trung ương, vốn được coi là chìa khóa để kiềm chế lạm phát và duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính toàn cầu.

Điều này cũng đang khiến các ngân hàng trung ương trên thế giới lo lắng về sự độc lập của mình với chính phủ và đặt câu hỏi về nguyên tắc đã giúp họ giữ lạm phát ở mức thấp hơn và ổn định hơn kể từ giữa những năm 1980.

Đó là thời điểm Chủ tịch FED Paul Volcker đã tạo được uy tín trong việc chống lạm phát và tạo được sự độc lập của FED với Bộ Tài chính, kiềm chế tăng trưởng giá cả bằng lãi suất cao và làm gương cho hàng chục ngân hàng trung ương khác làm theo trong những thập kỷ tiếp theo.

"Mọi người không nhận ra thế giới đã khác biệt như thế nào trong 30 năm qua so với trước đây về mặt ổn định lạm phát", Jordi Galí, giáo sư tại Trường Kinh tế Barcelona, ​​cho biết.

Các ngân hàng trung ương lớn nhất thế giới như Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (FED), Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) là những thể chế độc đáo ở chỗ thường được lãnh đạo bởi các chính trị gia được bổ nhiệm, nhưng lại không nhận lệnh từ chính phủ.

Điều này là do các cơ quan này có một nhiệm vụ rất cụ thể, thường là giữ lạm phát ở mức khoảng 2%, mặc dù một số ngân hàng trung ương như FED cũng được giao nhiệm vụ tính đến tình hình việc làm.

Cơ chế này cho phép họ tự do đặt lãi suất ở mức mà họ thấy phù hợp để đạt được mục tiêu đó.

Nhưng tính độc lập là một khái niệm tương đối mới và một số ngân hàng trung ương, nhất là các nước đang phát triển, vẫn chịu ảnh hưởng của chính phủ khi thiết lập chính sách.

Bản thân FED đã chính thức độc lập kể từ năm 1951, nhưng danh tiếng của cơ quan này chỉ được khẳng định vào những năm 1980 khi Chủ tịch Volcker tăng lãi suất lên hai con số để ngăn chặn giá cả tăng vọt, vốn là hậu quả của các cú sốc năng lượng và sự quản lý yếu kém của FED đối với nguồn cung tiền.

Kể từ đó, hơn 100 ngân hàng trung ương, bao gồm cả Ngân hàng Trung ương Anh vào năm 1998, đã được trao các mức độ độc lập chính thức ngày càng tăng, chẳng hạn như khả năng đưa ra quyết định bất chấp mong muốn của chính phủ và lệnh cấm cho chính phủ vay tiền.

Theo một nghiên cứu được Trung tâm Nghiên cứu Chính sách Kinh tế công bố đầu năm nay, các ngân hàng trung ương đã chuyển từ trạng thái là một phần của chính phủ sang trạng thái hoàn toàn độc lập đã chứng kiến ​​mức giảm lạm phát hàng năm trong dài hạn khoảng 3,7 điểm phần trăm ở các nước giàu.

Mức giảm này thậm chí còn lớn hơn ở các nước nghèo hơn, ở mức 10,3 điểm phần trăm.

Những kết quả này lý giải cho thực tế là lạm phát dù sao cũng đang giảm do các xu hướng cơ cấu như toàn cầu hóa, sức lao động yếu hơn và những tiến bộ công nghệ.

Trong ví dụ gần đây nhất, hầu hết các ngân hàng trung ương độc lập đã kiểm soát được sự gia tăng lạm phát sau đại dịch trong vòng 2 hoặc 3 năm.

Ngược lại, thời kỳ Đại lạm phát của thế kỷ 20 kéo dài từ năm 1965 đến năm 1982, với những đợt tái phát ngày càng nghiêm trọng.

"Ngay cả đợt lạm phát tăng vọt gần đây cũng đã được xử lý rất tốt", giáo sư Gali nói thêm. "Bằng chứng là lạm phát đã giảm - không hoàn toàn, ở một số nơi giảm nhiều hơn những nơi khác - nhưng đối với tôi, đó là minh chứng rõ ràng nhất cho đến nay về sự thành công của các khuôn khổ mà các ngân hàng trung ương trên toàn thế giới đã và đang áp dụng."

Các nghiên cứu khác cho thấy lạm phát có xu hướng ổn định hơn và các ngân hàng thương mại ít rủi ro hơn khi ngân hàng trung ương độc lập.

Điều này là do công chúng và các nhà đầu tư tin tưởng vào khả năng kiểm soát lạm phát của ngân hàng trung ương, do đó họ không tăng yêu cầu kỳ vọng về tiền lương, giá cả và lợi nhuận.

Các ngân hàng trung ương cũng có quyền in tiền, đặc biệt là trong thời kỳ bất ổn tài chính hoặc khi giá cả có nguy cơ rơi vào vòng xoáy giảm mạnh, được gọi là giảm phát.

Vào những thời điểm như vậy, thường có sự phối hợp nhất định với các chính phủ về các biện pháp chống khủng hoảng, dù là công khai hay bí mật.

Những nỗ lực phối hợp này đã góp phần chấm dứt cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cuối những năm 2000 và cho phép Chủ tịch ECB Mario Draghi dập tắt những đồn đoán về sự sụp đổ của đồng Euro vào năm 2012, khi ông cam kết sẽ làm "bất cứ điều gì cần thiết" để bảo tồn đồng Euro.

"Đặc biệt trong các cuộc khủng hoảng, tính độc lập và uy tín của ngân hàng trung ương là tài sản quý giá nhất", Frederik Ducrozet, người đứng đầu bộ phận nghiên cứu kinh tế vĩ mô tại Pictet Wealth Management, cho biết. "Sẽ là một vấn đề rất nghiêm trọng nếu FED, hay bất kỳ ngân hàng trung ương nào, nhận lệnh từ Tổng thống."

Trong thập kỷ qua, khi nền kinh tế đang phục hồi sau cuộc khủng hoảng tài chính, lạm phát quá thấp và lãi suất đã ở mức 0, các ngân hàng trung ương đã cùng nhau mua vào hàng nghìn tỷ đô la nợ chính phủ và các tài sản khác.

Điều này đã tạo ra một số tác động, từ việc thúc đẩy lợi nhuận từ cổ phiếu, trái phiếu và bất động sản đến việc phá vỡ điều cấm kỵ về việc ngân hàng trung ương tài trợ - mặc dù gián tiếp - cho chính phủ của họ.

Các ngân hàng trung ương đã bị chỉ trích vì làm trầm trọng thêm bất bình đẳng kinh tế bằng cách làm giàu cho những người sở hữu tài sản đó, những người thường giàu có.

Và việc thể hiện sức mạnh tài chính đó cũng có thể đã khơi dậy sự thèm muốn kiểm soát trực tiếp hơn của các chính trị gia.

"Theo một nghĩa nào đó, các ngân hàng trung ương đã bộc lộ mình là những siêu cường quốc thực sự, và điều đó đặt ra nhiều câu hỏi hơn về quyền kiểm soát, tính độc lập, và tính chính danh của các nhà kỹ trị hoạt động trong một loại bong bóng chính trị cô lập", Maurice Obstfeld, cựu kinh tế trưởng tại Quỹ Tiền tệ Quốc tế và hiện là thành viên cấp cao tại Viện Peterson, cho biết.

 

Nguồn:thitruongtaichinhtiente.vn Copy link
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết