Hệ thống ngân hàng Khu vực 13: Đẩy mạnh cho vay trên địa bàn những tháng cuối năm 2025
Ngân hàng Nhà nước Khu vực 13 tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng giảm lãi suất, đơn giản hóa thủ tục, ưu tiên vốn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận tín dụng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững giai đoạn cuối năm 2025.
Ảnh minh họa
TS. Phạm Minh Tú, Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Khu vực 13 chia sẻ, những kết quả đạt được của hệ thống ngân hàng Khu vực 13, góp phần quan trọng vào thực hiện nhiệm vụ chính trị của ngành Ngân hàng khu vực 13 và phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
Đến cuối tháng 8/2025, nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn đạt 398.327 tỷ đồng, tăng 6,42% so với cuối năm 2024, đáp ứng 78,54% nhu cầu vốn tín dụng Khu vực 13; tổng dư nợ tín dụng đạt 507.162 tỷ đồng, tăng 7,11% so với cuối năm 2024. Trong đó: tỉnh Đồng Tháp là 231.900 tỷ đồng, tăng 3,02%; tỉnh Tây Ninh 275.262 tỷ đồng, tăng 10,82%.
Về tín dụng đối với 3 ngành kinh tế, gồm: Cho vay nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản: dư nợ đạt 93.401 tỷ đồng, tăng 19,36% so với cuối năm 2024, chiếm tỷ lệ 20,56% tổng dư nợ toàn khu vực. Cả 2 tỉnh đều tăng dư nợ đối với ngành kinh tế này; tín dụng công nghiệp và xây dựng: dư nợ đạt 88.191 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 17,56%; tín dụng thương mại và dịch vụ: dư nợ đạt 320.647 tỷ đồng, tăng 11,01%.
Bên cạnh đó, các ngân hàng thương mại cũng đẩy mạnh phát triển thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM), đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ thanh toán, chuyển đổi số, ứng dụng cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, định danh và xác thực điện tử, thu thập thông tin nhận diện sinh trắc học, thực hiện bảo mật dữ liệu thông tin khách hàng.
Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước Khu vực 13 tổng hợp từ các chi nhánh ngân hàng trên địa bàn cho thấy, đến cuối tháng 8/2025, toàn khu vực có 1.022 máy ATM, 4.850 máy POS đang hoạt động. Gần 4 triệu tài khoản thanh toán đã mở cho khách hàng, trong đó 881.175 tài khoản được mở bằng phương thức eKYC, chiếm 28,36%. Hơn 330.148 điểm chấp nhận QR Code đã tạo cho khách hàng.
Giao dịch TTKDTM nội địa đạt hơn 280 triệu món, với giá trị hơn 2,8 triệu tỷ đồng. Dịch vụ Mobile Money góp phần cho người dân nhất là tại vùng nông thôn được tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính. Hiện trên địa bàn Khu vực 13 có một số nhà mạng đang tham gia triển khai dịch vụ này như Mobifone, VNPT, Viettel đẩy mạnh TTKDTM đối với thuế, phí, dịch vụ công, điện, nước, học phí, viện phí; phát triển các mô hình Chợ 4.0, tuyến phố không dùng tiền mặt, phát triển thương mại điện tử, 100% doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu thực hiện nộp thuế điện tử, phí, lệ phí qua ngân hàng phối hợp thu và thông quan 24/7... phối hợp thực hiện trả lương qua tài khoản với 1.363 đơn vị hưởng lương từ ngân sách nhà nước (đạt 100%), chi trả lương hưu, trợ cấp xã hội qua tài khoản ngân hàng đạt 60%, thanh toán trợ cấp bảo hiểm xã hội qua tài khoản đạt trên 95%.
Chia sẻ về giải pháp từ nay đến cuối năm 2025, TS. Phạm Minh Tú cho biết, Ngân hàng Nhà nước Khu vực 13 tiếp tục tập trung chỉ đạo các TCTD trên địa bàn thực hiện nhiệm vụ ổn định và phấn đấu giảm lãi suất tiền gửi, tạo dư địa giảm lãi suất cho vay theo đúng chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước. Chấp hành nghiêm các mức trần lãi suất của Ngân hàng Nhà nước, tiếp tục tiết giảm chi phí hoạt động, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, đơn giản hóa thủ tục và các biện pháp khác để giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
Ngân hàng Nhà nước Khu vực 13 tiếp tục chỉ đạo các TCTD trên địa bàn tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, tập trung ưu tiên phân bổ nguồn vốn tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng kinh tế, kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tăng cường phối hợp với các cơ quan có liên quan trong xử lý và thu hồi nợ xấu. Kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, không hạ chuẩn tín dụng.
Đồng thời, tiếp tục cắt giảm các thủ tục không phù hợp, đơn giản hóa quy trình và thủ tục cấp tín dụng đi đôi với việc tuân thủ quy định của pháp luật, không nới lỏng các điều kiện cấp tín dụng để đảm bảo an toàn hoạt động, hạn chế nợ xấu phát sinh. Áp dụng chuyển đổi số vào quy trình cấp tín dụng, tạo thuận lợi cho khách hàng vay vốn; ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, ứng dụng cơ sở dữ liệu dân cư trong các hoạt động ngân hàng.