Mở rộng thị trường vốn: Chìa khóa cho tăng trưởng bền vững
Trước yêu cầu về quy mô đầu tư khổng lồ, hệ thống ngân hàng và vốn FDI đã không còn đủ sức đáp ứng. Để giải bài toán này, giới chuyên môn cho rằng, phát triển một thị trường vốn nội địa sâu rộng, đặc biệt là thị trường trái phiếu doanh nghiệp, chính là con đường tất yếu để Việt Nam có thể duy trì động lực tăng trưởng bền vững trong thập kỷ tới.
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Gỡ nút thắt tăng trưởng
Chia sẻ tại tọa đàm “Thị trường vốn nợ Việt Nam 2025” do FiinRatings và CGIF đồng tổ chức mới đây, ông Lê Hồng Khang, Giám đốc Phân tích của FiinRatings nhận định, Việt Nam đang sở hữu một vị thế thuận lợi để bứt phá trong làn sóng tái định hình thương mại toàn cầu. Dù rủi ro thuế quan vẫn hiện hữu, mức thuế đối ứng cơ sở cho phép Việt Nam duy trì vị thế cạnh tranh so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Indonesia và thậm chí thuận lợi hơn Ấn Độ. Quan trọng hơn, sức ép ngày càng gia tăng đối với các tập đoàn đa quốc gia trong việc đa dạng hóa và giảm thiểu rủi ro chuỗi cung ứng đang mở ra một “cơ hội vàng” cho Việt Nam.
Cũng theo ông Lê Hồng Khang, thông điệp từ Diễn đàn Kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc vừa qua đã nêu rõ: Việt Nam đã sẵn sàng thoát khỏi vai trò “công xưởng gia công” để từng bước trở thành mắt xích giá trị cao trong chuỗi cung ứng toàn cầu, đặc biệt ở lĩnh vực công nghệ cao. “Đây không chỉ là bước đi tất yếu cho tăng trưởng bền vững mà còn là chìa khóa thu hút dòng vốn đầu tư dài hạn. Để biến tham vọng thành hiện thực, Việt Nam cần một quy mô vốn khổng lồ chưa từng có”, ông Lê Hồng Khang nhận định.
Trong bối cảnh đó, khu vực tư nhân được kỳ vọng sẽ dẫn dắt làn sóng tăng trưởng tiếp theo thông qua những khoản đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng, công nghệ và nghiên cứu – những trụ cột để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP hai con số giai đoạn 2026–2030 và tiến tới trở thành quốc gia thu nhập cao giai đoạn 2030–2045. Tuy nhiên, theo ông Khang, tham vọng này đang bị kìm hãm bởi chất lượng và cơ cấu vốn của nền kinh tế: chênh lệch đáng kể chi phí vốn giữa các khu vực kinh tế: chi phí vốn cho chính phủ duy trì ở mức thấp, trong khi khu vực tư nhân phải gánh chi phí cao hơn đáng kể.
Sự chênh lệch đó, cùng với sự lệ thuộc quá mức vào nợ ngắn hạn, đã làm suy yếu khả năng của khu vực tư nhân trong việc theo đuổi các dự án đầu tư dài hạn. Việc thiếu vắng nguồn vốn dài hạn với chi phí hợp lý đã trở thành nút thắt then chốt, hạn chế tính linh hoạt và khả năng hiện thực hóa những khoản đầu tư thiết yếu để bảo đảm tăng trưởng bền vững của Việt Nam trong tương lai. Điều này đặt ra một yêu cầu cấp bách là cải cách toàn diện thị trường vốn.
Cần chiến lược đồng bộ cho phát triển thị trường vốn
Thực tế cho thấy, hệ thống tài chính Việt Nam hiện vẫn phụ thuộc quá mức vào tín dụng ngân hàng, trong khi cả thị trường cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp đều thiếu chiều sâu và chưa đủ năng lực để đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng lớn của nền kinh tế. Để khắc phục, ông Khang cho rằng, thị trường vốn Việt Nam cần một chiến lược cải cách đồng bộ: mở rộng tệp nhà đầu tư tổ chức; đa dạng hóa sản phẩm theo kỳ hạn và loại hình, đặc biệt là trái phiếu hạ tầng; áp dụng khung đầu tư, phân bổ vốn dựa trên rủi ro (risk-based capital allocation); và trên hết, xây dựng hành lang pháp lý minh bạch, ổn định và có khả năng dự báo. Mục tiêu cuối cùng là kiến tạo một cơ chế huy động vốn hiệu quả với chi phí hợp lý, trong đó thị trường trái phiếu doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm, nhằm bảo đảm dòng vốn dài hạn và bền vững cho khu vực tư nhân, qua đó duy trì động lực tăng trưởng của Việt Nam trong thập kỷ tới.
Theo ông Nguyễn Quang Thuân, Chủ tịch Điều hành FiinGroup và FiinRatings, cơ hội đầu tư trên thị trường vốn đang rất lớn. Có thể kể đến như, các doanh nghiệp niêm yết (DNNY) có kế hoạch huy động lên tới 198,7 nghìn tỷ đồng trong năm 2025 và thực tế đã huy động 56,2 nghìn tỷ đồng trong giai đoạn 7 tháng đầu năm 2025. Vậy con số huy động qua vốn cổ phần trên thị trường chứng khoán (TTCK) sẽ còn lại 142,6 nghìn tỷ đồng (tức khoảng 5,4 tỷ USD) dự kiến cho 5 tháng còn lại của năm. Bên cạnh đó, nhu cầu huy động vốn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) cũng đang rất lớn, bởi thực tế các NHTM đã huy động khoảng 200 nghìn tỷ đồng trong 7 tháng năm 2025 và dự kiến sẽ huy động 112 nghìn tỷ đồng (tức 4,2 tỷ USD) cho các tháng còn lại của năm. Những con số trên đã khẳng định không chỉ nhu cầu vốn lớn mà thực tế các doanh nghiệp Việt Nam đang đẩy mạnh triển khai các hoạt động huy động vốn cụ thể cả trên TTCK và trên thị trường vốn nợ Việt Nam.
Ông Dominic Scriven, Chủ tịch Điều hành Dragon Capital Group cho rằng, theo dự báo, Việt Nam đặt mục tiêu quy mô GDP sẽ khoảng 800 tỷ USD, tức tương đương GDP bình quân đầu người khoảng 8 nghìn USD vào 2030 trên con đường trở thành nước có thu nhập trung bình. Tính dựa trên cơ cấu đầu tư của khu vực tư nhân hiện tại ở mức khoảng 40%, thì khi đó tổng quy mô đầu tư của khu vực này sẽ khoảng 320 tỷ USD/ năm. Dĩ nhiên, con số các năm trước đó sẽ nhỏ hơn nhưng quy mô tổng vốn đầu tư của khu vực tư nhân tầm 250-300 tỷ USD/năm rõ ràng là quá sức của hệ thống ngân hàng thương mại. Do vậy, việc khai mở thị trường vốn nội địa và thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, trong đó có thông qua thị trường nợ và TPDN là điều tất yếu phải triển khai.
“Nguồn vốn FDI và nguồn vốn từ hệ thống tín dụng ngân hàng không thể đáp ứng nổi quy mô trên nếu chúng ta có tầm nhìn xa hơn”, ông Nguyễn Quang Thuân đưa ra nhận định. Lý giải cho nhận định này, ông Thuân cho biết, quy mô nguồn vốn FDI hiện nay dao động khoảng 30 tỷ USD/năm và ngành Ngân hàng hiện có quy mô dư nợ tín dụng toàn hệ thống khoảng 17,6 triệu tỷ đồng (tức khoảng 664 tỷ USD) và với cơ cấu cấp tín dụng trung – dài hạn khoảng 40% thì rõ ràng không thể cấp đủ nguồn cho vốn đầu tư phát triển của lĩnh vực tư nhân nói chung và của doanh nghiệp nói riêng.
Để phát triển thị trường vốn nói chung và vốn nợ hay TPDN nói riêng, giới chuyên môn cho rằng, điều quan trọng không chỉ tập trung phía cung hàng hóa (là cải thiện và chuẩn hóa các điều kiện phát hành), mà điều quan trọng không kém, thậm chí quan trọng hơn đó là việc phát triển cơ sở nhà đầu tư qua việc rà soát những hạn chế đầu tư, phân bổ tài sản. Thay vào đó, có thể đưa ra khung quản trị đầu tư dựa trên rủi ro (risk-based capital), trong đó có việc áp dụng xếp hạng tín nhiệm độc lập nhưng nhiều quốc gia đã thực hiện.
Trong bối cảnh đó, ông Dominic Scriven cho rằng, các doanh nghiệp nên có sự chuẩn bị cho một chiến lược vốn hiệu quả nhằm tận dụng cơ hội và vận hội mới hiện nay. Ông Dominic Scriven cũng “bật mí” 4 yếu tố quan trọng nhất khi Dragon Capital Group xem xét đầu tư, đó là: “Thanh khoản, quản trị rủi ro, hiệu quả đầu tư và uy tín”. Từ đó, ông khuyến nghị: Các doanh nghiệp nên tập trung vào minh bạch thông tin và nâng cao chất lượng quản trị. Đồng thời, đảm bảo chất lượng trái phiếu, đặc biệt tập trung vào các dự án dài hạn, tuyệt đối tránh các trường hợp không hoàn thành đúng cam kết hoặc "gãy gánh giữa đường".