Sửa đổi Luật Dự trữ quốc gia: Hướng tới dự trữ chiến lược, công cụ điều tiết thị trường
Tại Phiên họp thứ 51 diễn ra chiều ngày 5/11, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về dự án Luật Dự trữ quốc gia (sửa đổi). Dự thảo luật lần này được đánh giá có nhiều nội dung đổi mới, hướng đến mục tiêu hiện đại hóa, phân quyền mạnh mẽ và hình thành dự trữ chiến lược - một công cụ điều tiết thị trường, bảo đảm an ninh kinh tế và phát triển bền vững.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về dự án Luật Dự trữ quốc gia (sửa đổi) chiều ngày 5/11. Ảnh: QH
Hoàn thiện khung pháp lý, tăng cường phân cấp, phân quyền
Trình bày Tờ trình của Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết, dự thảo Luật Dự trữ quốc gia (sửa đổi) kế thừa và giữ nguyên quy định về chế độ chính sách đối với người làm công tác dự trữ quốc gia tại Điều 9 của luật hiện hành. Dự thảo sửa đổi, hoàn thiện 31 điều, trong đó làm rõ mục tiêu của dự trữ quốc gia là thực hiện dự trữ chiến lược nhằm quản lý, huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế, điều tiết thị trường theo quy luật thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về ngân sách nhà nước chi cho dự trữ quốc gia, dự thảo quy định các nội dung chi sử dụng từ nguồn dự phòng, cho phép chuyển nguồn sang năm sau, phù hợp với Luật Ngân sách nhà nước năm 2025. Dự thảo cũng bổ sung nguyên tắc xây dựng chiến lược, nguồn lực dự trữ quốc gia, mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Giao Chính phủ quyết định danh mục hàng dự trữ quốc gia; các bộ, ngành quy định chi tiết mặt hàng dự trữ quốc gia, bảo đảm tính linh hoạt theo từng giai đoạn.
Về thẩm quyền quyết định nhập, xuất hàng dự trữ, dự thảo Luật phân quyền, phân cấp triệt để, giao Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ quản lý hàng dự trữ quốc gia được quyền quyết định, còn Chính phủ quy định chi tiết tình huống và trình tự thực hiện. Quy định về mua, bán hàng dự trữ quốc gia được thiết kế theo hướng không trùng lặp với quy định của pháp luật đấu thầu, đấu giá hiện hành, đồng thời, cho phép các bộ ngành đặc thù như Quốc phòng, Công an thực hiện theo quy định riêng của lĩnh vực quốc phòng, an ninh.
Về bảo quản hàng dự trữ, dự thảo bỏ yêu cầu hàng dự trữ phải cất giữ riêng, thay thế quy định “quy chuẩn kỹ thuật quốc gia” bằng “quy định về bảo quản hàng dự trữ quốc gia” nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính. Dự thảo cũng bổ sung nội dung về dự trữ chiến lược, quy định mang tính nguyên tắc về chính sách, yêu cầu và vai trò trong điều tiết thị trường, giao Chính phủ quy định cụ thể trong từng thời kỳ.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng, dự thảo luật lược bỏ 36 trong tổng số 66 điều của luật hiện hành, đồng thời, cắt giảm 2 thủ tục hành chính, phân cấp triệt để cho các cơ quan, đơn vị. Thẩm quyền được điều chỉnh từ Ủy ban Thường vụ Quốc hội xuống Chính phủ trong việc ban hành danh mục hàng dự trữ quốc gia; từ Thủ tướng Chính phủ xuống các bộ, ngành trong việc quyết định nhập, xuất hàng; chuyển một số nhiệm vụ từ Bộ Tài chính sang các bộ quản lý hàng dự trữ.
Về hiệu lực thi hành, Bộ trưởng đề nghị luật có hiệu lực từ ngày 1/7/2026, riêng quy định về dự trữ chiến lược có phạm vi ảnh hưởng rộng, cần có thời gian nghiên cứu, đánh giá kỹ tác động, đề nghị áp dụng từ ngày 1/7/2027. Dự án luật được đề nghị trình Quốc hội xem xét theo trình tự rút gọn và bổ sung vào chương trình kỳ họp thứ 10.
Làm rõ cơ chế dự trữ chiến lược và xã hội hóa dự trữ quốc gia
Trình bày tóm tắt Báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi cho rằng, việc giữ tên gọi “Luật Dự trữ quốc gia (sửa đổi)” là phù hợp. Tuy nhiên, dự thảo cần cụ thể hóa hơn các nội dung liên quan đến dự trữ chiến lược, xã hội hóa dự trữ quốc gia và cơ chế điều tiết thị trường.
Về dự trữ chiến lược, Chương V của dự thảo (từ Điều 31–33) đã thể chế hóa quan điểm của Đảng, tạo cơ sở pháp lý cho hình thành nguồn lực dự trữ chiến lược. Tuy nhiên, theo Ủy ban Kinh tế và Tài chính, các quy định mới dừng ở mức nguyên tắc, chưa làm rõ phương thức, công cụ và cơ chế điều tiết thị trường. Do đó, cần bổ sung cụ thể trong luật các nội dung như danh mục hàng dự trữ chiến lược, cơ chế thực hiện, nguồn ngân sách tách bạch với dự trữ truyền thống, đầu tư hiện đại hóa kho tàng, công nghệ bảo quản và chính sách đặc thù với cán bộ làm công tác dự trữ.
Đối với xã hội hóa dự trữ quốc gia, Ủy ban đánh giá dự thảo đã có bước tiến trong việc thúc đẩy xã hội hóa hoạt động dự trữ quốc gia, góp phần đa dạng hóa nguồn lực, nâng cao tính linh hoạt của dự trữ quốc gia và giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, các quy định còn mang tính nguyên tắc, chủ yếu dừng ở việc “khuyến khích” mà thiếu cơ chế ràng buộc cụ thể. Ủy ban Kinh tế và Tài chính đề nghị nghiên cứu, bổ sung chính sách ưu đãi về thuế, tài chính, tín dụng và cơ chế mua lại, luân phiên hàng dự trữ để thu hút doanh nghiệp tham gia.
Về chế độ với người làm công tác dự trữ quốc gia (Điều 9), Ủy ban lưu ý quy định “hưởng phụ cấp thâm niên” không phù hợp với Nghị quyết 27-NQ/TW, vốn yêu cầu bãi bỏ phụ cấp thâm niên nghề (trừ quân đội, công an, cơ yếu). Do đó, đề nghị không quy định nội dung này trong luật. Một số ý kiến đề xuất chỉnh “phụ cấp ưu đãi nghề” thành “phụ cấp theo nghề” và giao Chính phủ quy định chi tiết.
Về ngân sách chi cho dự trữ quốc gia, Ủy ban đề nghị phân định rõ nguồn chi giữa dự trữ quốc gia và dự trữ chiến lược; làm rõ nguyên tắc hạch toán, quản lý nguồn chi ngân sách theo Luật Ngân sách Nhà nước 2025. Đồng thời, cần bổ sung quy định về nguyên tắc sử dụng nguồn thu từ hoạt động dự trữ chiến lược để kinh doanh, điều tiết thị trường; làm rõ phạm vi và trách nhiệm khi chuyển nguồn chi, tránh thất thoát, lãng phí.
Để bảo đảm thống nhất với sự cần thiết ban hành Luật, Ủy ban Kinh tế và Tài chính đề nghị Chính phủ đẩy nhanh tiến độ chuẩn bị các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật; cân nhắc, điều chỉnh thời điểm có hiệu lực thi hành chậm nhất là 1/7/2026, bao gồm cả các quy định thể chế hóa các chủ trương của Đảng và quy định của Luật này về dự trữ chiến lược, điều tiết thị trường.
Hoàn thiện thể chế, bảo đảm tính đồng bộ và hiệu quả thực thi
Kết luận thảo luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải đề nghị Chính phủ tiếp thu đầy đủ ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và cơ quan thẩm tra, nhấn mạnh việc thể chế hóa đầy đủ chủ trương của Đảng và chỉ đạo của Tổng Bí thư về Dự trữ quốc gia.
Phó Chủ tịch Quốc hội nêu rõ, chủ trương Dự trữ quốc gia không chỉ phục vụ mục tiêu cứu trợ trong tình huống khẩn cấp mà thực sự trở thành Dự trữ chiến lược, là công cụ phục vụ điều tiết thị trường để đảm bảo nền kinh tế vận hành ổn định, hiệu quả theo quy luật của thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa và là một trong những trụ cột quan trọng của an ninh quốc gia, an ninh kinh tế, phát triển bền vững.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu Chính phủ rà soát, bảo đảm quy định của dự thảo phù hợp Hiến pháp, thống nhất với các luật liên quan như Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Tình trạng khẩn cấp, Luật Đấu thầu, Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật. Đồng thời, dự luật phải giải quyết được các vướng mắc hiện nay, đổi mới tư duy về Dự trữ quốc gia, đặc biệt là các nội dung liên quan đến dự trữ chiến lược, xã hội hóa Dự trữ Quốc gia và dự trữ để điều tiết thị trường.
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải nhấn mạnh, việc xây dựng luật phải tuân thủ Nghị quyết 27/NQ-TW, bảo đảm kiểm soát quyền lực, phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật. Các quy định về thẩm quyền lập kế hoạch, quyết định xuất, nhập hàng dự trữ cần được rà soát kỹ để tránh chồng chéo. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện các quy định về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, bổ sung nội hàm, chính sách cụ thể cho dự trữ chiến lược, phân định rõ nguồn chi, cơ chế huy động tổ chức, doanh nghiệp tham gia.
Phó Chủ tịch Quốc hội cũng lưu ý việc xây dựng cơ chế mua bổ sung, luân phiên hàng dự trữ, đầu tư hiện đại hóa kho tàng, công nghệ bảo quản, chính sách đất đai cho doanh nghiệp nhà nước thuê bảo quản hàng dự trữ. Đồng thời, cần cân nhắc quy định phụ cấp thâm niên nghề, bảo đảm phù hợp với chủ trương của Đảng và thực tế triển khai.
Về nguồn lực thực hiện, Phó Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh cần hình thành quỹ Dự trữ quốc gia trên cơ sở bảo đảm an ninh tài chính quốc gia, cân đối vĩ mô, thống nhất với Luật Ngân sách Nhà nước, tạo hành lang pháp lý chặt chẽ, hiệu quả. Bộ Tài chính cần rà soát điều khoản thi hành để đảm bảo khả thi, tránh vướng mắc và nghiên cứu rút ngắn thời điểm có hiệu lực để đáp ứng yêu cầu cấp bách khi triển khai luật theo thủ tục rút gọn.


















