Sửa đổi Luật Công nghệ cao: Tháo gỡ bất cập 16 năm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số
Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, sáng ngày 31/10, Quốc hội nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra về dự án Luật Công nghệ cao (sửa đổi). Sau hơn 16 năm thi hành, Luật Công nghệ cao năm 2008 đã bộc lộ nhiều hạn chế, đòi hỏi phải sửa đổi toàn diện nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý, tháo gỡ rào cản, khuyến khích phát triển hệ sinh thái công nghệ cao, thúc đẩy chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo và thu hút đầu tư trong lĩnh vực này.

Quang cảnh phiên họp sáng ngày 31/10. Ảnh: QH
Hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo động lực mới cho phát triển công nghệ cao
Trình bày Tờ trình của Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, Luật Công nghệ cao được ban hành năm 2008, là đạo luật đầu tiên và duy nhất điều chỉnh lĩnh vực này. Sau hơn 16 năm, Luật Công nghệ cao bộc lộ nhiều hạn chế trong ưu đãi, danh mục công nghệ, khu công nghệ cao và tổ chức thực hiện, đòi hỏi sửa đổi toàn diện để khắc phục bất cập và thúc đẩy phát triển.
Việc đề xuất xây dựng Luật Công nghệ cao (sửa đổi) nhằm thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về việc hoàn thiện hành lang pháp lý thúc đẩy phát triển công nghệ cao phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2045 và hội nhập quốc tế trong tình hình mới; triển khai thực hiện chủ trương đẩy mạnh phân cấp, giao các thẩm quyền quản lý nhà nước cho các cấp chính quyền địa phương trong thúc đẩy phát triển công nghệ cao, nhất là khu công nghệ cao. Đồng thời, đảm bảo tính đồng bộ, minh bạch, khả thi, tránh chồng chéo với hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành và tháo gỡ vướng mắc, rào cản về phát triển công nghệ cao hiện nay.
Bố cục Dự thảo Luật Công nghệ cao (sửa đổi) gồm 6 chương và 27 điều, giảm 8 điều và có sự thay đổi về cấu trúc, hình thức so với Luật công nghệ cao hiện hành. Phạm vi điều chỉnh quy định về hoạt động công nghệ cao, chính sách, biện pháp khuyến khích, thúc đẩy hoạt động công nghệ cao.
Dự thảo Luật công nghệ cao (sửa đổi) bao gồm 6 nhóm chính sách, bao gồm: Hoàn thiện khái niệm và tiêu chí về công nghệ cao; Thiết kế lại hệ thống các chính sách và đối tượng hưởng chính sách ưu tiên, ưu đãi, hỗ trợ đầu tư; Khuyến khích phát triển hệ sinh thái công nghệ cao; Bổ sung quy định về các mô hình khu công nghệ cao, đô thị công nghệ cao; Bổ sung và hoàn thiện các quy định quản lý nhà nước về công nghệ cao, cơ chế quản lý, kiểm tra, giám sát và đánh giá hiệu quả; Bổ sung các quy định về yêu cầu chuyển đổi số toàn diện hoạt động công nghệ cao.
Dự thảo Luật được thiết kế theo nguyên tắc đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng cường hậu kiểm, chuyển đổi số toàn diện trong công tác quản lý và hoạt động công nghệ cao. Thay đổi tư duy quản lý theo hướng quản lý hiệu quả, không quản lý quá trình. Thu hút nguồn đầu tư ngoài ngân sách nhà nước cho công nghệ cao thông qua việc khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, tài trợ kinh phí cho nghiên cứu, phát triển công nghệ cao, công nghệ chiến lược, sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm công nghệ chiến lược. Kế thừa tối đa những nội dung của Luật công nghệ cao 2008 đã được triển khai có hiệu quả trong thời gian qua.
Đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất và khuyến khích đầu tư công nghệ cao
Báo cáo thẩm tra dự án Luật Công nghệ cao (sửa đổi), Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Nguyễn Thanh Hải nhận định: Ủy ban cơ bản nhất trí với sự cần thiết ban hành dự án Luật theo trình tự, thủ tục rút gọn. Nội dung dự thảo Luật cơ bản phù hợp với chủ trương của Đảng, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất với hệ thống pháp luật, tương thích với các điều ước quốc tế có liên quan. Tuy nhiên, đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục rà soát, đối chiếu các quy định trong dự thảo Luật với các luật khác có liên quan để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật.
Đối với các nội dung cụ thể, về Chính sách của Nhà nước đối với phát triển công nghệ cao và công nghệ chiến lược (Điều 4), Ủy ban cho rằng, dự thảo Luật đã quy định nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ, thu hút và khuyến khích đối với các hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ cao. Tuy nhiên, cần làm rõ hơn về nguồn lực bảo đảm cũng như cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong triển khai; cần quy định chỉ áp dụng các ưu đãi trong hoạt động sản xuất công nghệ cao trong thời gian doanh nghiệp đáp ứng các tiêu chí theo quy định. Đối với các dự án công nghệ cao tại vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo,... nghiên cứu bổ sung chính sách miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, hỗ trợ vay vốn lãi suất 0% cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng số, ưu tiên cấp đất cho khu công nghệ cao.
Về tiêu chí xác định được ưu tiên đầu tư phát triển và công nghệ chiến lược (Điều 5), Ủy ban đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục rà soát, bổ sung tiêu chí cụ thể mang tính định lượng (đóng góp giá trị gia tăng, số bằng sáng chế, tiêu chuẩn hạ tầng, trình độ nhân lực,...) để đảm bảo tính khả thi, công bằng. Đồng thời, bổ sung Danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển, làm căn cứ xác định sản phẩm, dự án công nghệ cao được khuyến khích phát triển, được ưu tiên trong hoạt động chuyển giao công nghệ.
Về nghiên cứu và phát triển công nghệ cao, công nghệ chiến lược (Điều 11, 12), Ủy ban đề nghị nghiên cứu bổ sung quy định ưu đãi, hỗ trợ khi nghiên cứu, phát triển “công nghệ lõi”, “công nghệ mở” (khoản 3 Điều 11); được tài trợ, hỗ trợ kinh phí từ quỹ phát triển khoa học và công nghệ cho hoạt động nghiên cứu sáng tạo công nghệ cao (khoản 4, khoản 6 Điều 11); Đề nghị rà soát quy định tại khoản 1 Điều 12 dự thảo Luật đảm bảo không chồng chéo với quy định tại Điều 61 Luật Khoa học, Công nghệ & Đổi mới sáng tạo về việc bố trí 3% ngân sách Nhà nước cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Về chính sách hỗ trợ, ưu đãi trong thực hiện thử nghiệm và trình diễn công nghệ cao, công nghệ chiến lược (khoản 3 Điều 13), báo cáo thẩm tra đề nghị nghiên cứu, bổ sung quy định về miễn trừ, giảm nhẹ trách nhiệm dân sự, hành chính đối với trường hợp thử nghiệm đúng quy trình nhưng gặp rủi ro từ những nguyên nhân khách quan; đồng thời làm rõ điều kiện ưu tiên tại điểm đ khoản 3 (như ưu tiên về giá, năng lực kỹ thuật) để bảo đảm minh bạch và thống nhất với Luật Đấu thầu.
Về phân loại doanh nghiệp công nghệ cao (khoản 2 Điều 16), dự thảo Luật quy định phân loại doanh nghiệp công nghệ cao ở 2 mức (mức 1 là các doanh nghiệp công nghệ cao có nhà đầu tư trong nước chiếm tỷ lệ phần vốn góp hoặc tỷ lệ sở hữu cổ phần trên 30% và nhận chuyển giao công nghệ lõi ở mức “đổi mới và phát triển”; mức 2 là các doanh nghiệp công nghệ cao còn lại), từ đó xây dựng những chính sách ưu đãi, hỗ trợ khác nhau đối với các doanh nghiệp này. Báo cáo thẩm tra nhận định, việc quy định như vậy có thể sẽ dẫn đến sự phân biệt giữa doanh nghiệp có vốn của nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, có thể ảnh hưởng tới chủ trương khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực này. Do vậy, đề nghị xem xét, sửa đổi quy định đảm bảo công bằng và hợp lý hơn.
 
  

 
  






















 
  
