A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Khi tín dụng ngân hàng trở thành “bạn đồng hành” phát triển nông nghiệp hiện đại

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có vị trí chiến lược là một trong những vùng đồng bằng quan trọng trong sản xuất nông nghiệp với các sản phẩm nổi trội, như: lúa, trái cây, thủy hải sản… Tuy nhiên, ĐBSCL cũng đang đối diện với những thách thức như tác động nghiêm trọng từ biến đổi khí hậu, tình trạng hạn mặn diễn biến ngày càng phức tạp, cùng sự suy thoái đất trong quá trình canh tác.

Với không gian rộng hơn, sản xuất truyền thống không thể đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững thì nông nghiệp thông minh đã mở ra hướng đi mới. Việc ứng dụng công nghệ tiên tiến không chỉ giúp ngành Nông nghiệp ĐBSCL tăng năng suất và chất lượng nông sản, mà còn tạo ra chuỗi giá trị bền vững. Chuyển đổi sang nền nông nghiệp thông minh hứa hẹn tạo ra bước đột phá phát triển nông nghiệp của vùng bền vững và thịnh vượng.

Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị khẳng định tầm nhìn chiến lược trong việc đặt khoa học, công nghệ (KHCN), đổi mới sáng tạo (ĐMST) và chuyển đổi số (CĐS) trở thành một trong những động lực then chốt cho phát triển đất nước. ĐBSCL, vốn được mệnh danh là “vựa lương thực” quốc gia, việc triển khai Nghị quyết số 57-NQ/TW trở thành yêu cầu bức thiết, là chìa khóa để nông nghiệp ĐBSCL thích ứng biến đổi khí hậu, nâng cao năng lực cạnh tranh, khắc phục những tồn tại vốn có, từng bước trở thành trung tâm nông nghiệp thông minh, bền vững của quốc gia.

Với không gian phát triển rộng mở sau hợp nhất, ĐBSCL đang triển khai nhiều giải pháp chiến lược nhằm định hình một trung tâm công nghiệp mới của ĐBSCL góp phần chế biến sản phẩm nông sản giá trị gia tăng tại chỗ.

Trong 3 năm triển khai Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã đạt nhiều kết quả tích cực. Nông nghiệp không chỉ tiếp tục khẳng định vai trò trụ đỡ của nền kinh tế, mà còn tham gia sâu vào hội nhập kinh tế thế giới. Một trong những “điểm tựa” phát triển nông nghiệp vùng ĐBSCL là dòng chày vốn tín dụng nông nghiệp.

“Chất xúc tác” giúp nông sản vùng nâng tầm

Sau khi hợp nhất đơn vị hành chính ĐBSCL có 3 Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Chi nhánh Khu vực (Khu vực 13 gồm Tây Ninh và Đồng Tháp; Khu vực 14 gồm TP Cần Thơ và Vĩnh Long; Khu vực 15 gồm An Giang và Cà Mau). Về mạng lưới gồm 2 hội sở chính Ngân hàng Thương mại cổ phần, 405 Chi nhánh cấp I, 156 Chi nhánh cấp II, 1.310 phòng giao dịch, 170 quỹ tín dụng nhân dân và 12 tổ chức tài chính vi mô, 7 văn phòng đại diện.

Quy mô dư nợ tín dụng đến cuối tháng 9/2025 là 1.396.706 tỉ đồng, Riêng tín dụng ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản là 254.993 tỉ đồng, chiếm 18,26% tổng dư nợ tín dụng vùng ĐBSCL, tín dụng xuất khẩu là 67.017 tỉ đồng, chiếm 4,80%. Bên cạnh đó, cho vay các chương trình tín dụng phục vụ nhu cầu trồng trọt, nuôi trồng, khai thác, thu mua tiêu thụ và chế biến, như: tín dụng thủy sản là 146.342 tỉ đồng; tín dụng lúa, gạo là 128.890 tỉ đồng và tín dụng rau quả là 34.917 tỉ đồng, lần lượt chiếm tỉ lệ so với dư nợ tín dụng nông nghiệp vùng là 57,39%, 58,55% và 13,69%.

Riêng trên địa bàn Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực 13 các tổ chức tín dụng còn cho vay phục vụ tải cơ cấu ngành nông nghiệp dư nợ tín dụng đạt 1.381 tỉ đồng. Trong đó: Cho vay sản xuất nông nghiệp theo mô hình liên kết dư nợ tín dụng đạt 1.090 tỉ đồng, chiếm 78,9% tổng dư nợ phục vụ tái cơ cấu ngành nông nghiệp Khu vực 13. Cho vay sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao dư nợ tín dụng đạt 118 tỉ đồng, chiếm 8,5%. Cho vay nông nghiệp sạch dư nợ tín dụng đạt 173 tỉ đồng, chiếm 12,5%. Cho vay tín dụng xanh với dư nợ tín dụng là 500 tỉ đồng.

Nguồn vốn từ ngân hàng không chỉ giải quyết bài toán vốn mà còn là “chất xúc tác” giúp nông sản vùng nâng tầm, tạo giá trị gia tăng cao và thay đổi diện mạo nông thôn theo hướng hiện đại, bền vững.

untitled-1.jpg

Dòng chảy vốn ngân hàng là “điểm tựa” vững chắc tạo đòn bẩy tăng trưởng thế mạnh vùng là lúa/gạo, trái cây và thủy, hải sản. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp chuyển đổi hiệu quả, xuất khẩu nông sản tăng nhanh và ổn định, nhiều mặt hàng xuất khẩu dẫn đầu trên thế giới. Đời sống người dân và thu nhập nông hộ không ngừng nâng cao, nông thôn đổi mới, rút ngắn khoảng cách với đô thị; Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” có bước đột phá về số lượng, chất lượng...

Những cánh đồng lúa, chế biến gạo xuất khẩu, vườn cây ăn trái trĩu quả, cá tra nuôi chế biến xuất khẩu mang ngoại tệ về cho đất nước chính là minh chứng sống động cho hiệu quả của nguồn vốn “tam nông”. Dòng vốn ấy không chỉ nuôi dưỡng khát vọng làm giàu chính đáng của người dân mà còn góp phần xây dựng một nền nông nghiệp vùng ĐBSCL phát triển xanh, hiệu quả và giàu bản sắc.

Việc giải quyết bài toán vốn cho doanh nghiệp không chỉ giúp ổn định giá nội địa mà còn là động lực quan trọng để họ chủ động hơn trong chiến lược xuất khẩu, đảm bảo vị thế của hạt gạo Việt trên thị trường quốc tế.

Giải pháp thúc đẩy phát triển vùng

Trong giai đoạn tới, NHNN Chi nhánh Khu vực 13, Khu vực 14 và Khu vực 15 xác định rõ các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm mang tính đột phá để phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong thời gian tới, tập trung thực hiện các giải pháp trọng tâm sau:

Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng nông, lâm nghiệp và thủy sản góp phần đắc lực thực hiện các mục tiêu công nghiệp hóa – hiện đại hóa, chuyển đổi số trong nông nghiệp và thúc đẩy liên kết “6 nhà” (nhà nông – nhà doanh nghiệp – nhà khoa học – nhà băng – Nhà nước – nhà phân phối) được coi là đột phá quan trọng. Chỉ đạo các tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí, ứng dụng khoa học - công nghệ, phấn đấu giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ khách hàng vay vốn.

Thứ hai, tiếp tục triển khai các chính sách, đặc biệt là tín dụng để tạo điều kiện cho doanh nghiệp, người dân tiếp cận với vốn ngân hàng, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc thực tế cung ứng vốn hỗ trợ tăng trưởng.

Thứ ba, tiếp tục tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, các động lực tăng trưởng kinh tế theo chủ trương của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; tích cực triển khai các chương trình tín dụng; kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro;

Thứ tư, tăng cường chuyển đổi số, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn tín dụng, thúc đẩy phát triển sản xuất - kinh doanh;…

Thứ năm, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, tiếp tục đẩy mạnh triển khai các chương trình, chính sách tín dụng theo chủ trương của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ lãi suất 2%/năm từ ngân sách nhà nước cho các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh vay vốn để thực hiện các dự án xanh, tuần hoàn và áp dụng khung tiêu chuẩn ESG...

Thứ sáu, để tháo gỡ nút thắt cho vay nông nghiệp công nghệ cao, cần có chiến lược tổng thể từ chính sách đến thị trường. Nhà nước cần hoàn thiện khung pháp lý về tài sản trên đất nông nghiệp, cơ chế xác nhận dự án công nghệ cao, đồng thời mở rộng tín dụng ưu đãi gắn với bảo hiểm nông nghiệp. Song song đó, các địa phương cũng cần đẩy mạnh quy hoạch vùng sản phẩm chủ lực, hỗ trợ xúc tiến thương mại, kết nối tiêu thụ, nhằm tạo không gian phát triển rộng mở cho nông nghiệp công nghệ cao.

 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết