VIFTA sau hơn một năm: Kim ngạch tăng nhưng doanh nghiệp Việt vẫn lúng túng ưu đãi thuế
Sau hơn một năm Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Israel (VIFTA) có hiệu lực, thương mại song phương ghi nhận tăng trưởng tích cực. Tuy nhiên, phía sau những con số khả quan ấy là thực tế đáng lo ngại: doanh nghiệp Việt Nam gần như chưa khai thác được ưu đãi thuế quan từ hiệp định do còn lúng túng trong tiếp cận thông tin và thủ tục chứng nhận xuất xứ.
“Qua một năm theo dõi, mặc dù kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam - Israel tăng nhưng khi đi sâu vào dữ liệu, chúng tôi thấy tỷ lệ tận dụng C/O ưu đãi theo VIFTA gần như chưa được thể hiện rõ ràng. Chúng tôi chưa ghi nhận được các doanh nghiệp đã khai thác C/O form của Việt Nam - Israel để hưởng thuế ưu đãi, theo số liệu của Cục Hải quan”, bà Nguyễn Phương Linh, Trưởng phòng, Cục Quản lý nợ và Kinh tế đối ngoại, Bộ Tài Chính nêu tại hội thảo “Tăng cường gắn kết doanh nghiệp Việt Nam - Israel, tận dụng cơ hội từ VIFTA” do Vụ Phát triển thị trường nước ngoài, Bộ Công Thương tổ chức chiều 16/12.
Kết quả một năm thực thi VIFTA
|
Bà Nguyễn Phương Linh, Trưởng phòng, Cục Quản lý nợ và Kinh tế đối ngoại, Bộ Tài Chính trình bày về thuận lợi và thách thức cho doanh nghiệp Việt Nam trong tận dụng ưu đãi từ VIFTA. |
Là một trong những người trực tiếp tham gia đàm phán VIFTA, bà Linh cho biết, điều này dẫn đến thực tế là chưa thể xác định doanh nghiệp đang sử dụng thuế MFN ưu đãi thông thường hay thuế ưu đãi theo hiệp định.
“Đây là vấn đề cần tiếp tục theo dõi, bởi chưa rõ vướng mắc nằm ở khâu thống kê dữ liệu hay do doanh nghiệp chưa nắm được đầy đủ nội dung và cách thức tận dụng hiệp định”, bà Linh đặt vấn đề.
Còn bà Nguyễn Minh Phương, Trưởng phòng, Vụ Phát triển thị trường nước ngoài, cho biết sau hơn 12 tháng hiệp định có hiệu lực, nhiều doanh nghiệp vẫn lúng túng trong khai báo thuế và C/O. Bộ Công Thương liên tục nhận được email của doanh nghiệp hỏi về cách khai form, cách áp dụng ưu đãi thuế. Theo bà Phương, việc đã ký FTA nhưng không tận dụng được để thúc đẩy xuất nhập khẩu là điều rất đáng tiếc.
Thực tế tại hội thảo cho thấy, hơn 110 doanh nghiệp tham dự trực tiếp và trực tuyến đều bày tỏ sự quan tâm lớn tới thị trường Israel, song nhiều câu hỏi rất cơ bản về mức thuế với ngành hàng, cách tra cứu biểu thuế ưu đãi theo VIFTA cho thấy doanh nghiệp vẫn chưa tiếp cận đầy đủ thông tin.
Trong khi đó, Israel hiện là một trong những đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam tại Tây Á. Cụ thể, đây là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 và đối tác thương mại lớn thứ 5 của Việt Nam trong khu vực này.
VIFTA được ký kết ngày 25/7/2023 và chính thức có hiệu lực từ ngày 17/11/2024, đánh dấu một cột mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế của Việt Nam với khu vực Tây Á - châu Phi. Đây là hiệp định FTA đầu tiên của Israel với một quốc gia Đông Nam Á, đồng thời là FTA đầu tiên của Việt Nam với khu vực Tây Á - châu Phi.
Theo cam kết của VIFTA, Israel xóa bỏ thuế quan ngay khi hiệp định có hiệu lực đối với 66,3% số dòng thuế và xóa dần theo lộ trình 3 - 5 - 7 - 10 năm đối với phần còn lại. Phía Việt Nam cũng cam kết xóa bỏ phần lớn dòng thuế theo lộ trình, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa hai bên lưu thông. Việt Nam có thể gia tăng xuất khẩu các mặt hàng thế mạnh như thủy sản, hạt điều, dệt may, cà phê, tiêu… và đồng thời mở cửa cho hàng công nghệ cao, máy móc thiết bị từ Israel.
Hiệp định không chỉ mang lại lợi ích trực tiếp về thuế quan mà còn tạo khuôn khổ pháp lý ổn định và minh bạch. Bên cạnh thương mại hàng hóa, VIFTA cũng bao gồm các cam kết về thương mại dịch vụ và đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hai nước mở rộng hợp tác, đầu tư và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị của nhau.
Kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam - Israel trong năm 2024 đạt 3,2 tỷ USD, trong đó nhập khẩu từ Israel vào Việt Nam chiếm phần lớn và đạt 2,5 tỷ USD, xuất khẩu của Việt Nam sang Israel đạt 794,5 triệu USD. Theo Vụ phát triển thị trường nước ngoài, năm 2025, ước tính kim ngạch thương mại hai chiều năm 2025 có thể đạt trên 3,7 - 3,8 tỷ USD. Trong đó, xuất khẩu Việt Nam sang Israel có thể tăng hơn 10% so với 2024, vào khoảng 850 - 880 triệu USD nếu không có biến động lớn về chuỗi cung ứng hoặc chính sách thương mại quốc tế.
Biến cơ hội thành lợi ích thiết thực
![]() |
Đại diện Công ty chè Á Châu đặt câu hỏi tại hội thảo. |
Theo các chuyên gia và cơ quan quản lý, để tận dụng được hiệp định, doanh nghiệp cần vượt qua nhiều rào cản chủ quan lẫn khách quan.
Ông Lê Thái Hòa, Tham tán Thương mại Việt Nam tại Israel, nhấn mạnh Israel một quốc gia khởi nghiệp, phát triển kinh tế dựa vào triết lý đổi mới sáng tạo, lấy nền tảng cốt lõi là khoa học công nghệ cùng với hoạt động dịch vụ ngoại thương. Các ngành kinh tế mũi nhọn là dịch vụ khoa học công nghệ như phần mềm và giải pháp kỹ thuật trong công nghệ thông tin, an ninh mạng; kỹ thuật và công nghệ cao trong nông nghiệp, y tế; dịch vụ tài chính, ngân hàng, thiết bị khí tài quân sự, chế tác kim cương…
Doanh nghiệp Israel có xu hướng nhập khẩu hàng hóa đã qua chế biến, giá trị gia tăng cao, bao bì hoàn chỉnh, sẵn sàng đưa vào hệ thống phân phối. Hàng hóa nhập khẩu vào Israel thường phải tuân thủ những tiêu chuẩn đặc thù Do Thái tuy nhiên trong tiến trình cải cách mở cửa thị trường, Israel đã và đang ngày càng áp dụng các tiêu chuẩn thế giới thông dụng để tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhập khẩu hàng hóa từ bên ngoài vào trong nước, góp phần đa dạng hóa thị trường, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng.
Bên cạnh đó, do trong nước không sản xuất đủ, các doanh nghiệp Israel thường outsourcing (thuê ngoài) ra nước ngoài, đặt hàng theo thương hiệu Israel và chủ động tìm kiếm đối tác sản xuất. Hiện nay, xu hướng đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Israel đang gia tăng, trong đó Việt Nam là điểm đến tiềm năng.
Về lý do doanh nghiệp chưa tận dụng hiệu quả ưu đãi, ông Lê Thái Hoà nhận định doanh nghiệp còn thiếu thông tin. Vì vậy, các cơ quan hữu quan phía Việt Nam, cụ thể là Bộ Công Thương cần tiếp tục tích cực tuyên truyền, phổ biến để doanh nghiệp hiểu và tận dụng.
Trước những câu hỏi của doanh nghiệp về tiềm năng thị trường và mức thuế cụ thể với các mặt hàng, Tham tán Lê Thái Hòa đã hướng dẫn doanh nghiệp tra cứu biểu thuế của Israel được công khai trực tuyến và biểu cam kết VIFTA đã được Bộ Công Thương đăng tải trên Cổng thông tin điện tử. Bên cạnh đó, tham tán trực tiếp kết nối nhà mua cụ thể với trường hợp doanh nghiệp có nhu cầu tìm kiếm đối tác tại thị trường này.
Phân tích thêm tại hội thảo, bà Nguyễn Phương Linh cho rằng nhiều doanh nghiệp chưa tận dụng FTA do không đáp ứng quy tắc xuất xứ; mức thuế MFN đã tương đương; thiếu thông tin hoặc do thị trường khó…
“Chúng tôi rất thông cảm với doanh nghiệp, tra cứu thuế cũng phức tạp, bây giờ tra cứu C/O để đáp ứng cũng rất là khó”.
Bà Linh cho biết Chính phủ và các Bộ ngành cũng cố gắng phối hợp xây dựng cơ sở dữ liệu đồng bộ, dễ tra cứu cho doanh nghiệp. Trong đó Bộ Công Thương đang đẩy mạnh xây dựng Hệ sinh thái FTA trong năm 2026: “Chúng tôi hy vọng hệ sinh thái này nhằm giúp doanh nghiệp tra cứu và khai thác thuận lợi hơn”.
Đáng chú ý, VIFTA có cơ chế Ủy ban thực thi để hai bên rà soát quá trình triển khai. Đây được coi là kênh quan trọng để doanh nghiệp phản ánh những vướng mắc liên quan đến C/O, hoàn thuế, xác minh xuất xứ hay tỷ lệ tận dụng ưu đãi, qua đó các bộ ngành có cơ sở kiến nghị điều chỉnh ở cấp Chính phủ.
Tại hội nghị, các chuyên gia khuyến nghị doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu cam kết thuế quan, thủ tục, điều chỉnh quy trình sản xuất để đáp ứng quy tắc xuất xứ, tăng cường liên doanh liên kết với đối tác Israel và gắn kết chặt chẽ với các hiệp hội, cơ quan thương vụ tại nước ngoài, nhất là trong bối cảnh thị trường tiềm ẩn rủi ro về địa chính trị và thanh toán.
VIFTA đã mở cánh cửa lớn, nhưng để biến cơ hội thành kim ngạch và lợi ích thực chất, chìa khóa vẫn nằm ở năng lực tiếp cận thông tin và khả năng chủ động của doanh nghiệp.
Đỗ Kiều





















