Triển vọng các ngân hàng niêm yết năm 2020
Chất lượng tài sản được cải thiện với việc xử lý nợ VAMC và kiểm soát tỷ lệ nợ xấu nội bảng, bên cạnh việc đáp ứng chuẩn về quản trị rủi ro sẽ là một lợi thế không nhỏ cho các ngân hàng năm nay.
Đầu năm 2020, các nhà phân tích đã đưa ra báo cáo triển vọng đầu tư năm 2020, trong đó đề cập khá sâu về lĩnh vực ngân hàng, đặc biệt là nhóm ngân hàng đã niêm yết trên sàn chứng khoán.
Trong đó, Quy định về việc giảm lãi suất tiền gửi đối với một số kỳ hạn ngắn và lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên (từ tháng 11/2019) có thể có tác động trước mắt rất khác nhau phụ thuộc vào chính sách cụ thể của từng ngân hàng. Dù vậy về lâu dài, do mục tiêu giảm mặt bằng lãi suất của chính phủ, nên khả năng mở rộng lợi tức tài sản của các ngân hàng sẽ trở nên hạn chế hơn.
Các yêu cầu về an toàn vốn mới (theo Thông tư 41/2016-TT-NHNN hoặc Thông tư 22/2019-TTNHNN) và việc giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn (Thông tư 22/2019-TT- NHNN) đặt ra yêu cầu chặt chẽ hơn về vốn và huy động do đó dự kiến sẽ hạn chế khả năng mở rộng NIM của các ngân hàng. Tác động của các quy định này sẽ mạnh hơn đối với các ngân hàng có bộ đệm vốn mỏng (như VietinBank) hay tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn cao (như VIB và Techcombank).
Việc áp dụng tỷ lệ LDR tối đa mới đồng bộ ở mức 85% cho tất cả các ngân hàng (Thông tư 22/2019-TT-NHNN) sẽ cho phép các ngân hàng tư nhân có thêm cơ hội đẩy mạnh tỷ lệ này (so với mức ngưỡng tối đa 80% trước đây) để cải thiện NIM. Trái lại, việc giảm tỷ lệ LDR tối đa đối với các ngân hàng quốc doanh từ 90% xuống 85% dự kiến sẽ khiến các ngân hàng này phải kiềm chế tín dụng hoặc đẩy mạnh huy động, theo đó làm ảnh hưởng đến tăng trưởng tín dụng và biên lãi ròng.
Quy định về việc chuyển số dư tiền gửi không kỳ hạn của Kho bạc Nhà nước tại các ngân hàng thương mại về NHNN vào cuối mỗi ngày (Thông tư 58/2019/TT-BTC) nhiều khả năng sẽ ảnh hưởng đến chi phí huy động của các ngân hàng quốc doanh, nơi có tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn của Kho bạc Nhà nước cao.
Quy định quản lý chặt chẽ hơn hoạt động cho vay của các công ty tài chính tiêu dùng (Thông tư 18/2019/TT-NHNN), theo đó giảm dần tỷ lệ giải ngân trực tiếp cho khách hàng (có số dư nợ giải ngân trực tiếp tại công ty tài chính tiêu dùng đó trên 20 triệu đồng) về 30% kể từ năm 2024. Chúng tôi cho rằng tác động của Thông tư 18 sẽ chưa đáng kể trong ngắn hạn, dù trong dài hạn nhiều khả năng sẽ có ảnh hưởng đến tăng trưởng tín dụng và biên lãi ròng của các công ty tập trung cho vay tiền mặt như FE Credit và MCredit.
Tựu chung lại, các nhà phân tích của VDSC cho rằng các quy định mới của NHNN sẽ hạn chế khả năng mở rộng biên lãi ròng của các ngân hàng quốc doanh (VietinBank nhiều khả năng bị ảnh hưởng nhiều nhất) trong khi tác động tới các ngân hàng tư nhân sẽ là đa chiều do đó sẽ có mức độ ảnh hưởng nhẹ hơn (ACB và HDBank nhiều khả năng là những ngân hàng ít bị ảnh hưởng nhất).
Riêng đối với các ngân hàng quốc doanh, mặc dù dự kiến sẽ gặp thêm nhiều khó khăn về NIM, nhưng khó khăn về vốn cũng đang có khả năng được tháo gỡ nhờ (1) việc bổ sung thêm các ngân hàng quốc doanh vào danh sách đối tượng có thể được tăng vốn từ ngân sách nhà nước (theo dự thảo Nghị định 126/2017/NĐ-CP và 32/2018/NĐ-CP và (2) việc giảm giới hạn sở hữu nhà nước từ 65% về 51% (theo Chiến lược phát triển ngành ngân hàng đến năm 2025), dù thời gian hiệu lực còn chưa được xác định rõ.
Ở mảng dịch vụ, các nhà phân tích cho rằng thu nhập sẽ tiếp tục mở rộng, chủ yếu được thúc đẩy bởi bancassurance. Trong số các hoạt động dịch vụ mà các ngân hàng tiếp tục đẩy mạnh như bancassurance, giao dịch, bảo lãnh, dịch vụ trái phiếu, môi giới..., bancassurance là động lực chính thúc đẩy thu nhập dịch vụ, đặc biệt là mảng phân phối bảo hiểm nhân thọ (BHNT). Doanh thu phí mảng BHNT qua kênh ngân hàng đã tăng rất mạnh với tốc độ bình quân 86% mỗi năm trong giai đoạn 2016-2018, đưa tỷ trọng đóng góp vào tổng thu nhập phí BHNT lên cao và còn đang tiếp tục tăng). VDSC tin rằng mảng BHNT sẽ còn tiếp tục thâm nhập sâu với mức tăng trưởng tốt và đo đó, sẽ thúc đẩy tăng trưởng thu nhập từ bancassurance của các ngân hàng trong thời gian tới.
Thời gian qua đã chứng kiến thu nhập dịch vụ tăng mạnh nhất tại VIB và VPBank, tiếp theo là TPBank, VietinBank và MBBank. Trong khi đó, BIDV và HDBank có tăng trưởng thu nhập dịch vụ thấp hơn do thiếu động lực thúc đẩy không chỉ trong hoạt động bancassurance, mà trong cả hoạt động thanh toán. Các nhà phân tích kỳ vọng rằng Vietcombank và ACB sẽ là những ngân hàng tiếp theo có sự tăng trưởng đáng kể trong trong thu nhập từ bảo hiểm hàng năm, nhờ các thỏa thuận bancassurance mới được ký kết trong năm 2019 (VCB ký độc quyền với FWD vào tháng 11; ACB ký không độc quyền với Manulife vào tháng 9 và FWD vào tháng 12).
Không giống với xu hướng chung của các ngân hàng khác, thu nhập dịch vụ tại Techcombank đang có mức tăng trưởng khá thấp, do việc áp dụng các chính sách như miễn phí (zero fee) và hoàn tiền không giới hạn. Xu hướng miễn phí dịch vụ đang dần trở nên phổ biến hơn với sự tham gia của VIB, TPBank và ACB, nhằm hỗ trợ mục tiêu thu hút CASA dưới áp lực gia tăng của chi phí vốn. Do đó, các nhà phân tích của VDSC ước tính rằng trong trung hạn tăng trưởng thu nhập từ thanh toán của nhiều ngân hàng sẽ thấp hơn, mặc dù xu hướng về thanh toán không dùng tiền mặt đang tiếp tục lan rộng.
Mặt khác, các ngân hàng có thể có thêm nguồn tăng thu nhập dịch vụ từ phí bảo lãnh phát hành và phân phối trái phiếu. Về mặt này, Techcombank hiện có lợi thế dẫn đầu về thị phần, nhưng MBBank và TPBank cũng là những ngân hàng có tiềm năng thúc đẩy hoạt động này. Với thỏa thuận bancassurance độc quyền cùng FWD, Vietcombank có thể thu về một khoản thu nhập bất thường lớn trong một vài năm tới. Các ngân hàng khác như BIDV và ACB cũng đang tìm kiếm đối tác bảo hiểm nhân thọ độc quyền, và do đó, cũng có thể nhận được những khoản t a118 rả trước cao mặc dù các giao dịch này khó có thể hoàn tất trong ngắn hạn.
Việc xử lý nợ VAMC vẫn đang tiến triển khá tốt. Trong hai năm từ tháng 8/2017 đến tháng 8/2019, với việc Nghị quyết 42 có hiệu lực, đã có tổng số 236,8 ngàn tỷ (10.296 triệu USD) nợ VAMC được xử lý, tương đương với số nợ trung bình mỗi tháng 9,6 ngàn tỷ (417 triệu USD), hơn gấp đôi số nợ xử lý trung bình mỗi tháng trong giai đoạn 2012-2017. Đặc biệt, các ngân hàng đã tất toán hết nợ VAMC còn lại trong năm 2019, do đó, tỷ lệ chi phí dự phòng so với thu nhập hoạt động dự kiến sẽ giảm vào năm 2020 (đến cuối năm 2019 có 11 ngân hàng sạch nợ tại VAMC – pv).
Trong khi đó, với một phần nhỏ nợ VAMC còn lại, BIDV và HDBank sẽ vẫn phải trích lập một khoản dự phòng cho VAMC trong năm 2020, dù có thể thấp hơn nhiều so với năm 2019. Về phía VietinBank, với số dư VAMC ròng lớn ở mức trên 8 nghìn tỷ vào quý 3/2019 (0,9% dư nợ), gánh nặng dự phòng dự kiến sẽ tiếp tục đáng kể vào năm 2020 dù ngân hàng đã nỗ lực xử lý được 25% dư nợ VAMC trong 9 tháng đầu năm trước (là số liệu mới nhất). Do vậy những ngân hàng này sẽ có ít lợi thế hơn.
Ngoài ra, do sự tăng trưởng nhanh chóng của cho vay bán lẻ và tiêu dùng gần đây, tỷ lệ nợ xấu của một số ngân hàng như MBBank và TPBank đã dần tăng lên. VDSC nhận thấy xu hướng này đã bắt đầu từ năm 2018, và đang tiếp tục trong năm 2019. Do đó, chi phí dự phòng cho nợ nội bảng của các ngân hàng này dự kiến sẽ tăng đáng kể vào năm 2020.
Bất chấp những thách thức trong việc giảm CIR trong thời gian tới, nhưng các nhà phân tích vẫn tin rằng về lâu dài các ngân hàng vẫn sẽ nâng cao được hiệu quả hoạt động, bắt đầu từ các ngân hàng đầu tư mạnh vào quá trình chuyển đổi số, bao gồm VPBank, Techcombank, TPBank và ACB.
Về cổ phiếu, hiện tại mức định giá thấp (PB dự phóng 2020 ở mức 0,9-1,2 lần) và khả năng sinh lời cao (ROE dự phóng 2020 từ 20-24%) sẽ là lợi thế của các cổ phiếu ngân hàng. VPB và BID là các cổ phiếu mà VDSC tỏ ra ưa thích nhất.
Trong đó VPBank được đánh giá cao nhờ việc công ty con trong mảng tài chính tiêu dùng là FE Credit đã phục hồi kể từ đầu năm 2019. Và các nhà phân tích tin rẳng FE Credit sẽ đóng góp lần lượt khoảng 60% và 51% vào thu nhập lãi ròng hợp nhất và lợi nhuận sau thuế hợp nhất. Với việc mở rộng cho vay thẻ tín dụng và hợp tác phân phối bancassurance độc quyền với AIA, phí từ phân phối bảo hiểm nhân thọ và phí thanh toán sẽ là động lực tăng trưởng cho thu nhập dịch vụ của VPBank.
Còn BIDV là một ngân hàng quốc doanh đã có nhiều tiến triển tích cực trong quá trình tái cơ cấu dù mức tăng trưởng lợi nhuận khá khiêm tốn trong năm 2019. Cổ phiếu đang được giao dịch ở mức PB dự phóng 2020 2,0 lần, cao hơn so với các ngân hàng khác (ngoại trừ Vietcombank). Tuy nhiên, các nhà phân tích cho rằng BID xứng đáng với mức PB này do tiềm năng tăng trưởng được dự báo sẽ tốt hơn đáng kể sau thành công của thương vụ phát hành cho đối tác chiến lược Keb Hana Bank (KHB) và sau khi xử lý hết nợ VAMC. VDSC thậm chí ước tính LNST của BIDV sẽ đạt tăng trưởng kép hàng năm ở mức 30% trong giai đoạn 2019- 2022 và ROE sẽ tiệm cận mức 18% trong ba năm tới.