Chuẩn hóa doanh nghiệp tạo tác động để tiếp cận nguồn lực vốn
Việt Nam đang nổi lên như một điểm đến quan trọng của dòng vốn đầu tư tạo tác động trong khu vực Đông Nam Á. Tuy vậy, hệ sinh thái này vẫn còn sơ khai, đặc biệt là thiếu doanh nghiệp đáp ứng chuẩn mực để tiếp cận nguồn vốn đang ngày càng dồi dào.
![]() |
| Đầu tư tác động là việc đầu tư các dự án giúp giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển bền vững. |
Theo Báo cáo toàn cảnh đầu tư tác động tại Việt Nam 2025 của Quỹ Đầu tư Tác động Impact Investment Exchange (IIX), từ năm 2012 đến nay, Việt Nam đã thu hút khoảng 1,6 tỷ USD vốn đầu tư tạo tác động. Riêng trong năm 2024, tổng giá trị vốn cam kết dành cho các mục tiêu phát triển bền vững lên tới 2,83 tỷ USD – con số nổi bật so với mặt bằng khu vực.
Dòng vốn cam kết lại cho thấy sự phụ thuộc lớn vào nguồn vốn từ các định chế tài chính phát triển quốc tế, chiếm tới 97% tổng cam kết, trong khi vốn từ khu vực tư nhân bao gồm quỹ đầu tư, doanh nghiệp lớn và các sáng kiến thiện nguyện vẫn chỉ chiếm tỷ trọng khiêm tốn.
Về cấu trúc giao dịch, phần lớn vốn tạo tác động chảy vào Việt Nam thông qua các thương vụ quy mô lớn, tập trung vào năng lượng tái tạo, hạ tầng xanh và tài chính toàn diện. Giá trị trung bình mỗi thương vụ đạt 33,7 triệu USD, khoảng hai phần ba thương vụ có quy mô trên 5 triệu USD. Điều này cho thấy thị trường vẫn nghiêng về những doanh nghiệp lớn có tính ổn định cao.
Về công cụ tài chính, vốn vay chiếm ưu thế với 68% tổng số thương vụ nhờ rủi ro thấp và thủ tục quen thuộc. Ngược lại, vốn góp cổ phần phù hợp với doanh nghiệp giai đoạn đầu chỉ chiếm 25–30%, chủ yếu do chi phí thẩm định cao và số lượng doanh nghiệp “đủ chuẩn” còn hạn chế.
Theo các chuyên gia, mâu thuẫn lớn nhất hiện nay là doanh nghiệp tạo tác động, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, đang rất thiếu vốn nhưng lại không thể hấp thụ các khoản đầu tư lớn. Khoảng trống tín dụng của nhóm doanh nghiệp này tại Việt Nam được đánh giá là lớn nhất ASEAN, lên tới 27-30 tỷ USD.
|
Báo cáo toàn cảnh đầu tư tác động tại Việt Nam 2025 cho hay, phần lớn doanh nghiệp tạo tác động mắc kẹt giữa không đủ điều kiện vay từ hệ thống tài chính vi mô và không đạt chuẩn vay từ ngân hàng thương mại. Nhu cầu vốn thực tế của họ quanh mức dưới 500.000 USD - những khoản vốn nhỏ, linh hoạt, nhưng thị trường lại thiếu hoàn toàn sản phẩm tài chính phù hợp. Nguồn vốn lớn có sẵn nhưng không thể “chảy” xuống đúng nhóm doanh nghiệp cần được hỗ trợ.
Rào cản lớn nhất vẫn là tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp còn yếu ở năng lực quản trị, thiếu minh bạch tài chính, chưa hình thành văn hóa báo cáo và chưa biết cách xây dựng kế hoạch kinh doanh hấp dẫn nhà đầu tư. Họ phải dựa vào vốn cá nhân, vốn vay bạn bè hoặc tín dụng phi chính thức với chi phí cao, hạn chế khả năng mở rộng tác động xã hội.
Dù gặp nhiều hạn chế về năng lực tài chính, phần lớn doanh nghiệp tạo tác động vẫn vận hành ổn định. Khảo sát tại Báo cáo toàn cảnh đầu tư tác động tại Việt Nam 2025 cho thấy 63% doanh nghiệp có lãi, đặc biệt nổi bật trong lĩnh vực tài chính toàn diện (85% doanh nghiệp có lợi nhuận) và quản lý chất thải (80%).
Tuy nhiên, 92,8% thuộc nhóm siêu nhỏ và nhỏ, gần một nửa có doanh thu hằng năm dưới 100.000 USD. Đây phần lớn là các doanh nghiệp trẻ, đặt mục tiêu xã hội – môi trường lên trước lợi nhuận, nên khó đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của nhà đầu tư.
![]() |
Trong khi rào cản của nhà đầu tư lại nằm ở chính chất lượng doanh nghiệp. 100% nhà đầu tư được khảo sát cho rằng họ khó mở rộng đầu tư vì thiếu doanh nghiệp đáp ứng chuẩn mực. Các lý do phổ biến gồm hồ sơ pháp lý chưa đầy đủ, tài chính thiếu minh bạch, không có khung đo lường tác động, hoặc kế hoạch kinh doanh chưa rõ ràng. Đáng chú ý, 80% nhà đầu tư đánh giá tác động xã hội – môi trường quan trọng ngang hoặc hơn lợi nhuận tài chính.
Để giải bài toán về vốn cho doanh nghiệp, ông Lương Minh Huân - Viện trưởng Viện Phát triển doanh nghiệp (VCCI) cho rằng, muốn tiếp cận được vốn, doanh nghiệp cần thay đổi tư duy quản trị. Doanh nghiệp phải xây dựng hồ sơ năng lực đầy đủ, minh bạch, có kế hoạch kinh doanh bài bản. Khi thông tin được chuẩn hóa, doanh nghiệp mới có thể tiếp cận được các nguồn vốn từ các quỹ hỗ trợ và các chương trình đầu tư tạo tác động.
Từ góc độ cơ quan quản lý, phát biểu tại diễn đàn mới đây về đầu tư tác động, bà Nguyễn Thị Hồng Lam - đại diện Cục Phát triển doanh nghiệp tư nhân và kinh tế tập thể (Bộ Tài chính) chia sẻ, việc khơi thông nguồn lực công vẫn còn nhiều thách thức. Các công cụ hiện có như Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động chưa đạt kỳ vọng do vướng mắc về cơ chế vận hành.
Tuy nhiên, theo bà Hồng Lam, chính sách đang có những chuyển biến tích cực. Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước đang hoàn thiện hướng dẫn cho Nghị quyết số 198/2025/QH15, trong đó có cơ chế hỗ trợ lãi suất 2% cho các dự án xanh và kinh tế tuần hoàn. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đang thí điểm thành lập các Quỹ đầu tư mạo hiểm quốc gia và địa phương theo Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, cho phép kết hợp vốn Nhà nước và tư nhân.
Các chuyên gia cũng nhấn mạnh cần ưu tiên xây dựng nền tảng pháp lý cho doanh nghiệp và quỹ đầu tư tạo tác động, từ đó áp dụng ưu đãi tài chính cũng như có cơ chế bảo lãnh, chia sẻ rủi ro. Khi rủi ro giảm, vốn thương mại sẽ có động lực mạnh hơn để rót vào các lĩnh vực giàu tác động nhưng rủi ro cao – nhóm doanh nghiệp mà Việt Nam đang cần hỗ trợ nhất.
























