Bước tiến chính sách mở đường cho doanh nghiệp bước vào kỷ nguyên phát triển bền vững
Những cải cách thể chế mới đang mở ra nền tảng vững chắc để doanh nghiệp tăng tốc chuyển đổi xanh và tiếp cận các dòng vốn bền vững. Thách thức đặt ra lúc này là làm sao để doanh nghiệp biến cơ hội thành lợi thế trong quá trình thực thi và nâng cao sức cạnh tranh.
Cơ hội tái cấu trúc bền vững cho doanh nghiệp
Những năm qua và đặc biệt là năm 2025, Việt Nam đã chủ động thực hiện những thay đổi chiến lược sâu rộng nhằm thích nghi với thực tiễn và phát triển bền vững.
Đảng và Chính phủ đang nỗ lực thúc đẩy mô hình tăng trưởng mới bền vững hơn, với các trọng tâm tạo môi trường thuận lợi để doanh nghiệp phát triển và đổi mới sáng tạo. Tăng cường đầu tư vào nghiên cứu, ứng dụng công nghệ cao để nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả kinh tế, đặc biệt ưu tiên vào triển khai chiến lược phát triển dựa trên “bộ tứ Nghị quyết trụ cột” (Nghị quyết 57-NQ/TW, Nghị quyết 59-NQ/TW, Nghị quyết 66-NQ/TW, Nghị quyết 68-NQ/TW).
Phát biểu tại Hội thảo “Phát triển bền vững 2025: Động lực cho kỷ nguyên bền vững” do Báo Tài chính - Đầu tư tổ chức ngày 27/11, Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Tâm cho biết, thúc đẩy chuyển đổi số, chuyển đổi xanh chính là một trong những cách để Bộ Tài chính khẳng định vị thế và vai trò của mình như một “lực lượng tiên phong trong đổi mới và phát triển kinh tế quốc gia”.

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đã ban hành và triển khai Danh mục Phân loại xanh - một công cụ chính sách quan trọng nhằm nhận diện, đánh giá và thúc đẩy các dự án đầu tư thân thiện môi trường.
Danh mục này bao gồm 45 loại hình dự án thuộc 7 nhóm ngành kinh tế trọng điểm như năng lượng tái tạo, giao thông xanh, xây dựng bền vững, nông nghiệp tuần hoàn và dịch vụ môi trường. Đây là bước tiến lớn trong việc thiết lập khung thể chế cho thị trường tài chính xanh, giúp huy động hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước cho phát triển bền vững.
Theo thống kê, từ đầu năm đến nay, tổng giá trị phát hành trái phiếu xanh trong nước đã tăng hơn 60% so với cùng kỳ, chứng tỏ niềm tin của nhà đầu tư vào cam kết phát triển xanh của Chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam.
“Chuyển đổi xanh không chỉ là một yêu cầu toàn cầu, mà còn là cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam tái cấu trúc chiến lược phát triển, giảm thiểu rủi ro, tăng hiệu quả sử dụng năng lượng và mở rộng thị trường quốc tế”, Thứ trưởng Nguyễn Đức Tâm khẳng định.
Theo Thứ trưởng, Bộ Tài chính cùng các bộ, ngành liên quan đang nỗ lực hoàn thiện khung chính sách tài chính để tạo động lực mạnh mẽ hơn cho khu vực tư nhân. Chúng tôi đang triển khai các chính sách ưu đãi thuế, tín dụng ưu tiên và quỹ hỗ trợ đổi mới sáng tạo, đồng thời nghiên cứu cơ chế hợp tác công - tư trong các dự án hạ tầng số và năng lượng tái tạo. Đây là những giải pháp cụ thể nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, sáng tạo và tham gia tích cực vào tiến trình chuyển đổi kép.
Từ góc nhìn của UNDP, ông Vũ Thái Trường, Trưởng phòng Biến đổi khí hậu, UNDP Việt Nam cho rằng, “bộ tứ Nghị quyết trụ cột” tạo nên một nền tảng thể chế rất quan trọng cho giai đoạn phát triển tiếp theo của Việt Nam. Đây không chỉ là các định hướng của Chính phủ, mà còn là tín hiệu mạnh mẽ cho thị trường rằng khu vực tư nhân sẽ đóng vai trò trung tâm trong định hình tăng trưởng xanh và đổi mới mô hình kinh tế. Việc xác định doanh nghiệp tư nhân là động lực chủ đạo giúp củng cố niềm tin, tạo động lực đầu tư và thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh dựa trên thị trường.
Bên cạnh đó, Quyết định 21/2025/QĐ-TTg là một bước ngoặt đối với Việt Nam. “Lần đầu tiên, chúng ta có một hệ thống phân loại xanh thống nhất ở cấp quốc gia. Danh mục Phân loại xanh giúp doanh nghiệp xác định rõ đâu là hoạt động xanh, tiêu chí để được tiếp cận vốn xanh và các yêu cầu để chứng minh mức độ bền vững của dự án. Việc này không những giảm chi phí tuân thủ, mà còn mở ra cơ hội huy động vốn quốc tế, vốn thường có chi phí thấp hơn. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để doanh nghiệp tư nhân trở thành động lực của tăng trưởng xanh”, ông Trường nhấn mạnh.
Xoá bỏ khoảng cách giữa chính sách và thực thi
Khi thể chế đã có những bước tiến đáng kể, thách thức lớn nhất là khoảng cách giữa chính sách và thực thi. Hay nói cách khác, chính sách đã rất tiến bộ, nhưng doanh nghiệp và địa phương cần thêm công cụ, dữ liệu và hướng dẫn cụ thể để triển khai.
“Kinh tế tuần hoàn đã được triển khai rộng hơn, nhưng vẫn tồn tại sự chênh lệch giữa các ngành và địa phương. Một số lĩnh vực tiên phong (như năng lượng tái tạo, xử lý chất thải) đạt tiến bộ rõ rệt, trong khi nhiều ngành truyền thống còn chậm chuyển đổi (dệt may, chế biến thực phẩm, xây dựng)”, ông Vũ Thái Trường cho hay.

Phần lớn doanh nghiệp nhỏ và vừa - chiếm tới 97% tổng số doanh nghiệp trong nước - vẫn gặp khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn xanh, công nghệ mới hay dữ liệu số. “Nhiều doanh nghiệp chưa đáp ứng tiêu chuẩn môi trường nghiêm ngặt, thiếu năng lực và công nghệ”, đại diện UNDP nhấn mạnh.
Trong khi đó, trên toàn cầu, quy tắc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đang thay đổi căn bản. Theo ông Larry Lee Chio Lim, Phó Tổng Giám đốc CTCP Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn (SABECO), năm 2024, quy mô thị trường tài chính bền vững toàn cầu đạt giá trị 5.870 tỷ USD, báo hiệu rằng dòng vốn đang chảy vào các công ty có chiến lược ESG đáng tin cậy. Đến đầu năm 2025, nền kinh tế xanh toàn cầu đạt 7.900 tỷ USD, chiếm gần 9% thị trường chứng khoán niêm yết trên thế giới.
Đồng thời, kỳ vọng của người tiêu dùng đang thay đổi. Theo nghiên cứu năm 2024 của PwC, khách hàng sẵn sàng trả thêm gần 10% cho các sản phẩm bền vững và gần một nửa số người tiêu dùng đang tích cực giảm thiểu tác động đến môi trường. Những động lực này, bao gồm tài chính, pháp lý và người tiêu dùng, đang hội tụ.
“Tại SABECO, chúng tôi xem tính bền vững là một lợi thế cạnh tranh. Trên toàn cầu, các công ty đầu tư sớm vào hiệu quả năng lượng sẽ giảm 5-14% chi phí hoạt động. Các quỹ đầu tư bền vững tiếp tục vượt trội so với các quỹ đầu tư truyền thống, với 3.900 tỷ USD tài sản bền vững vào năm 2025. Và tại châu Á - Thái Bình Dương, hơn 60% người tiêu dùng ưa chuộng các thương hiệu mà họ cho là có trách nhiệm với môi trường”, ông Larry Lee Chio Lim cho biết.
Với kinh nghiệm tham gia nhiều dự án điện gió và dự án điện mặt trời tại Việt Nam, ông Phạm Thái Lai, Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Siemens khu vực ASEAN và Việt Nam đánh giá, trong bối cảnh hiện nay, yếu tố cực kỳ quan trọng là phải có một hệ thống lưới điện đủ năng lực quản lý và tích hợp sự vận động của các nguồn năng lượng.
“Gió không phải lúc nào cũng dự báo được, mặt trời lúc có lúc không. Điều quan trọng là phải có hệ thống quản lý đủ khả năng cân bằng và vận hành lưới điện. Chúng tôi tạo ra - Electrification X - công cụ cho phép trực quan hóa chính xác nơi có nhu cầu, nơi có nguồn phát để từ đó cân bằng và điều phối”, đại diện SABECO cho biết.
Ông Lee Leong Seng, Giám đốc Bộ phận Phát triển Bất động sản Nhà ở, Keppel Việt Nam đặt ra bài toán cân bằng giữa giá trị kinh tế và giá trị môi trường.
Theo ông Lee Leong Seng, tư duy ESG phải bắt đầu ngay từ giai đoạn phác thảo ý tưởng. Mọi thiết kế phải đáp ứng các tiêu chuẩn bền vững cơ bản, sau đó được nâng cấp dần trong giai đoạn thiết kế chi tiết và lựa chọn vật liệu. Các giải pháp thiết kế xanh, hài hòa với thiên nhiên thường đòi hỏi chi phí đầu tư ban đầu cao hơn, dẫn đến gia tăng chi phí xây dựng và có thể giá bán sản phẩm cũng sẽ cao hơn. Đa số khách hàng đều ưa chuộng dự án thân thiện môi trường, tuy nhiên một số có thể vẫn e ngại việc trả thêm chi phí cho các dự án này. Đây là thách thức lớn nhất và cần sự chung tay của tất cả các bên liên quan.
“Do đó, tôi tin rằng với sự hỗ trợ và dẫn dắt của Chính phủ, nhận thức cộng đồng về lợi ích của sản phẩm xanh sẽ ngày càng được nâng cao. Đồng thời, các cơ chế ưu đãi cũng sẽ góp phần khuyến khích doanh nghiệp áp dụng giải pháp và vật liệu bền vững”, ông Lee Leong Seng nhấn mạnh.


















