Vì sao bác sĩ nội trú chưa được công nhận như thạc sĩ?
Nhiều ý kiến không đồng tình khi Bộ GDĐT cho rằng chương trình bác sĩ nội trú, chuyên khoa là "đào tạo - hành nghề", không cấp văn bằng như thạc sĩ, tiến sĩ.
Giải trình của Bộ GDĐT làm nóng nghị trường Quốc hội
Trong báo cáo gửi đại biểu Quốc hội, giải trình, tiếp thu ý kiến về dự án Luật Giáo dục đại học (sửa đổi), Bộ GDĐT lý giải quan điểm về việc không xếp chương trình bác sĩ nội trú (BSNT), chuyên khoa I (CKI), chuyên khoa II (CKII) nằm trong khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân hay khung trình độ quốc gia.
Bộ GDĐT giữ quan điểm: Đây là đào tạo nghề, không phải học thuật. Trong báo cáo giải trình gửi Quốc hội, Bộ GDĐT nhấn mạnh bản chất của các chương trình BSNT, CKI, CKII là “đào tạo – hành nghề” nhằm tích lũy năng lực thực hành và công nhận chuyên khoa.
Theo lập luận này: Mục tiêu đào tạo tập trung vào kỹ năng hành nghề được kiểm chứng trong môi trường bệnh viện; Không phải chương trình học thuật để cấp bằng thạc sĩ, tiến sĩ; Không cấu trúc theo hệ thống tín chỉ chuẩn hóa, không yêu cầu luận văn, luận án, sản phẩm nghiên cứu hay công bố khoa học.
Bộ GDĐT cảnh báo, nếu quy đổi BSNT, CKI, CKII thành trình độ sau đại học sẽ làm lệch hệ thống bằng cấp, phá vỡ tính thống nhất của khung trình độ quốc gia; Làm mờ đi ý nghĩa của bằng thạc sĩ, tiến sĩ; Gây khó khăn trong công nhận văn bằng và chuyển đổi tín chỉ quốc tế.
Bộ cũng dẫn mô hình Mỹ, Đức, Pháp, Australia, Singapore để chứng minh: nội trú là giai đoạn đào tạo thực hành chuyên khoa, kết thúc bằng chứng nhận hành nghề, không phải học vị học thuật.
Về thiết kế chương trình, hiện tại, các chương trình đào tạo BSNT, CKI, CKII là đào tạo nghề nghiệp mang tính năng lực thực hành, cấu trúc không giống như đào tạo thạc sĩ hay tiến sĩ với môn học tiên quyết, môn học cốt lõi, kỹ năng nghiên cứu, sản phẩm nghiên cứu, đóng góp mới.
Thêm vào đó, Bộ GDĐT cho rằng đào tạo chuyên khoa y tế gắn chặt với chuẩn năng lực hành nghề, đạo đức nghề nghiệp và an toàn người bệnh - các yếu tố chỉ có thể được kiểm chứng trong môi trường thực hành nghề nghiệp, dưới sự giám sát của hội đồng chuyên môn và cơ sở y tế đủ điều kiện.
Những yêu cầu này không thể thay thế cơ chế bảo đảm chất lượng học thuật thông thường như kiểm định chương trình hay chuẩn đầu ra hoặc ngược lại.
Nếu chuyển các chương trình đào tạo chuyên sâu trong y học sang hệ thống giáo dục sau đại học thuộc giáo dục quốc dân, việc kiểm định và đánh giá có nguy cơ tách rời môi trường hành nghề thực tiễn, dẫn đến suy giảm tính chuyên nghiệp, hiệu quả đào tạo và tiềm ẩn rủi ro.
Mặt khác, việc xếp BSNT, BSCKI, CKII vào trình độ sau đại học như thạc sĩ, tiến sĩ sẽ tạo ra tiền lệ đối với các lĩnh vực khác như văn hóa, nghệ thuật, thể thao thành tích cao, an ninh, quốc phòng, hàng không, hàng hải, công an, tòa án, kiểm sát…

Tại Việt Nam đang triển khai đào tạo chuyên khoa sau đại học trong lĩnh vực sức khỏe bên cạnh đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ còn có ba hình thức: Chuyên khoa cấp I (CKI), Chuyên khoa cấp II (CKII) và Bác sĩ nội trú (BSNT).
Mô hình này được kế thừa từ hệ thống Pháp và duy trì hơn 50 năm qua (BSCNT, CKI từ năm 1972; BSCKII từ năm 1974), do Bộ Y tế quản lý và các trường đại học y, dược tổ chức đào tạo.
Ngành Y phản ứng mạnh: “Nội trú là tinh hoa của tinh hoa”
Trước những quy định trong dự án Luật Giáo dục đại học (sửa đổi), đại biểu Quốc hội Nguyễn Tri Thức - Thứ trưởng Bộ Y tế - cho rằng việc xem đào tạo BSNT, CKI, CKII như chứng chỉ hành nghề là chưa đúng. Ông khẳng định họ là những tinh hoa, trí thức rất lớn của ngành Y.
Theo ông, hiện nay, sau khi tốt nghiệp, bác sĩ sẽ chia thành hai nhóm. Nhóm đầu tiên theo hướng giảng dạy ở các trường đại học, thiên về học thạc sĩ, tiến sĩ. Nhóm thứ hai đi làm việc tại các bệnh viện, học thực hành và sẽ học chuyên khoa 1, chuyên khoa 2 và nội trú.
Đại biểu khẳng định lực lượng nội trú là tinh hoa của tinh hoa trong ngành Y. Vì vậy, xem CKI, CKII, BSNT như đào tạo chứng chỉ hành nghề là hoàn toàn không chính xác.

Đồng tình, đại biểu Trần Khánh Thu (Đoàn Hưng Yên) cho rằng những nhận định của Bộ GDĐT không công bằng với hệ thống đào tạo sau đại học lĩnh vực y tế.
Bà cho rằng cấu trúc chương trình đào tạo sau đại học các chuyên ngành lĩnh vực sức khỏe hoàn toàn phù hợp theo các chương trình đào tạo học thuật và hoàn toàn tuân thủ các quy định về đào tạo hiện nay.
"Ngành Y tế tha thiết kiến nghị được bổ sung văn bằng đào tạo sau đại học lĩnh vực sức khỏe vào hệ thống văn bằng quốc dân để hơn 40.000 cán bộ y tế có đủ cơ sở pháp lý công nhận cho văn bằng đã được đào tạo", đại biểu đề nghị.
Đào tạo ngành sức khỏe không thể đặt chung một khung
Đại biểu Quốc hội Lê Thị Thanh Lam - Đoàn ĐBQH TP Cần Thơ nêu rõ: Tại Điều 24 về tổ chức thực hiện chương trình đại học, khoản 2 quy định Bộ trưởng Bộ GDĐT phê duyệt chương trình đào tạo các ngành giáo viên, pháp luật và lĩnh vực sức khỏe.
Tuy nhiên, bà Lê Thị Thanh Lam cho rằng, các ngành thuộc khối sức khỏe có tính đặc thù rất cao vì liên quan trực tiếp đến tính mạng con người, đòi hỏi chuẩn nghề nghiệp nghiêm ngặt và phải đáp ứng các quy định pháp lý riêng khi hành nghề.
Từ phân tích trên, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo bổ sung quy định: chương trình đào tạo các ngành thuộc lĩnh vực sức khỏe do Bộ trưởng Bộ GDĐT phê duyệt trên cơ sở phối hợp và thẩm định chuyên môn của Bộ Y tế.
"Quy định này giúp bảo đảm chương trình đào tạo của tất cả cơ sở giáo dục thống nhất trên toàn quốc, phù hợp với hệ thống bệnh viện và chuẩn đạo đức chuyên môn lâm sàng; tránh tình trạng đào tạo tràn lan, không sát với yêu cầu ngành nghề. Đồng thời bảo đảm sự đồng bộ giữa Luật Giáo dục đại học với Luật Khám bệnh, chữa bệnh và Luật Dược", bà Lê Thị Thanh Lam nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, đại biểu cho rằng việc bổ sung kiến thức, kỹ năng y khoa phù hợp với phạm vi ngành theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế, với sự tham gia thẩm định của Bộ Y tế, sẽ giúp kiểm soát tốt hơn chất lượng đào tạo, khắc phục các lỗ hổng trong thực hành lâm sàng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực y tế trước khi được cấp phép hành nghề.


















