Các nhân tố tạo động lực đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Kinh tế Việt Nam thời gian qua có sự tăng trưởng vượt bậc, trong đó, 4 nhân tố gồm sản xuất nông nghiệp, công nghiệp - xây dựng, dịch vụ; tiêu dùng nội địa; đầu tư công và xuất, nhập khẩu hàng hóa đã trở thành động lực quan trọng để kinh tế Việt Nam tăng trưởng ổn định. Bài viết tập trung phân tích các nhân tố tạo động lực góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2025; từ đó, đưa ra các hàm ý chính sách nhằm thúc đẩy kinh tế Việt Nam tăng trưởng bền vững trong những năm tới.
Đặt vấn đề
Thế giới đã trải qua ¼ thế kỷ và bước vào kỷ nguyên số với đặc điểm lớn là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với sự phát triển mạnh mẽ của các công nghệ tiên tiến như: trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big Data) và điện toán đám mây (Cloud), đang làm thay đổi sâu sắc phương thức quản trị quốc gia và hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đối với Việt Nam, sự thay đổi này mang lại cơ hội lớn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong bối cảnh kỷ nguyên số hiện nay đã tạo ra nhiều cơ hội để Việt Nam đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế của đất nước, sớm đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao.
Nhìn vào bối cảnh kinh tế Việt Nam năm 2025 cho thấy, với quyết tâm của hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp, Việt Nam đã từng bước tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế để khơi thông nguồn lực phát triển của đất nước. Riêng 6 tháng đầu năm 2025, kinh tế Việt Nam ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng, đạt 7,52% so với cùng kỳ năm trước, là mức cao nhất của cùng kỳ các năm trong giai đoạn 2011 - 2025. Cùng với đó, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn bảo đảm. Trong khi kinh tế thế giới còn nhiều biến động, mức tăng trưởng này không chỉ phản ánh sự nỗ lực vượt bậc của Chính phủ, cộng đồng doanh nghiệp và người dân, mà còn khẳng định tính bền bỉ, linh hoạt của nền kinh tế Việt Nam. Điều này cho thấy năng lực quản trị chính sách vĩ mô, khả năng thích ứng của cộng đồng doanh nghiệp, cùng sự hỗ trợ mạnh mẽ của các động lực mới như đầu tư công, tiêu dùng nội địa, công nghiệp chế biến chế tạo, dịch vụ du lịch.
Hình 1. Tốc độ tăng GDP của Việt Nam 6 tháng đầu năm 2025 (%)

Nguồn: Cục Thống kê, 2025
Kết quả này không chỉ giúp Việt Nam tạo đà tăng trưởng cho cả năm 2025 với mục tiêu GDP khoảng 8,3 - 8,5%, mà còn tạo đà cho tăng trưởng hai chữ số giai đoạn tiếp theo, qua đó củng cố niềm tin của nhà đầu tư và các định chế tài chính quốc tế về sức mạnh nội lực của nền kinh tế.
Các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2025
Thứ nhất, nhân tố từ khu vực nông nghiệp; công nghiệp, xây dựng và dịch vụ
Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục giữ vai trò “trụ đỡ” quan trọng trong bức tranh tăng trưởng kinh tế. Sáu tháng đầu năm 2025, khu vực này tăng 3,84%, cao hơn cùng kỳ năm 2024, đóng góp 5,59% vào GDP. Sự ổn định đến từ nhiều yếu tố: thời tiết thuận lợi cho sản xuất vụ Đông – Xuân, giá lúa gạo, cà phê, thủy sản duy trì ở mức cao nhờ nhu cầu quốc tế phục hồi, đồng thời các địa phương tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi. Riêng xuất khẩu gạo đạt gần 4,1 triệu tấn, trị giá 2,65 tỷ USD, tăng 12% về lượng và 18% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024, đưa Việt Nam tiếp tục là một trong những quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. Ngành thủy sản cũng ghi nhận nhiều điểm sáng. Xuất khẩu tôm, cá tra sang Mỹ, Liên minh châu Âu (EU), Trung Quốc phục hồi, đạt tổng kim ngạch 4,2 tỷ USD, tăng 11% so với cùng kỳ[1]. Đặc biệt, nhiều doanh nghiệp áp dụng nuôi trồng thủy sản bền vững, đáp ứng tiêu chuẩn xanh - sạch - truy xuất nguồn gốc, giúp gia tăng giá trị và mở rộng thị trường. Ngành nông nghiệp nói chung đang chuyển từ “số lượng” sang “chất lượng”, hướng tới chuỗi giá trị và thị trường bền vững. Đây chính là nhân tố nền tảng giúp tăng trưởng GDP ổn định, đồng thời đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và xuất khẩu.
Cùng với đó, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng trưởng 8,33%, đóng góp tới 42,2% GDP – là động lực chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,8%, tiếp tục là “đầu tàu” với các ngành mũi nhọn. Trong đó, ô tô có sản lượng tăng 15% nhờ tiêu thụ nội địa và xuất khẩu sang ASEAN; ngành dệt may, da giày có đơn hàng từ Mỹ và EU phục hồi mạnh mẽ, kim ngạch xuất khẩu đạt 24,1 tỷ USD, tăng 13%; mặt hàng điện tử, linh kiện được hưởng lợi từ xu hướng chuyển dịch chuỗi cung ứng toàn cầu, đặc biệt các tập đoàn lớn mở rộng nhà máy tại Bắc Ninh, Thái Nguyên, Hải Phòng; thực phẩm, đồ uống với mức tăng trưởng trên 10% nhờ tiêu dùng trong nước phục hồi. Riêng ngành xây dựng cũng khởi sắc, tăng 7,1%, chủ yếu nhờ giải ngân đầu tư công và sự sôi động của thị trường bất động sản công nghiệp. Các dự án hạ tầng giao thông trọng điểm như cao tốc Bắc – Nam giai đoạn 2, sân bay Long Thành, các tuyến đường vành đai tại Hà Nội và TP.HCM được đẩy nhanh tiến độ, tạo cú hích cho toàn ngành.
Hình 2. Tỷ trọng đóng góp của 3 khu vực kinh tế trong 6 tháng đầu năm 2025 (%)

Nguồn: Cục Thống kê, 2025
Đặc biệt, ngành dịch vụ ghi nhận mức tăng trưởng 7,6%, trong đó, du lịch, lưu trú, ăn uống tăng 14,7%; vận tải, kho bãi tăng 11,3% nhờ hoạt động logistics quốc tế sôi động; dịch vụ hành chính công, cải cách thủ tục tăng 9%, phản ánh quá trình tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu quả phục vụ. Ngoài ra, Việt Nam đón hơn 9,8 triệu lượt khách quốc tế, tăng 20,7% so với cùng kỳ, doanh thu du lịch đạt 477 nghìn tỷ đồng, đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế[2].
Thứ hai, nhân tố tiêu dùng nội địa
Tiêu dùng nội địa là điểm sáng lớn nhất, phản ánh sức cầu trong nước phục hồi mạnh mẽ. Sáu tháng đầu năm 2025, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 9,3%, loại trừ yếu tố giá còn tăng 6,8%. Thu nhập bình quân của người lao động đạt 8,3 triệu đồng/tháng, tăng thêm 760 nghìn đồng so với cùng kỳ 2024. Lạm phát (CPI) kiểm soát ở mức 3,27%, thấp hơn mục tiêu 4,5% mà Quốc hội đề ra, góp phần củng cố niềm tin tiêu dùng. Du lịch lữ hành tăng 23,2%, lưu trú – ăn uống tăng 14,7% cho thấy nhu cầu chi tiêu ngoài gia đình phục hồi sau đại dịch[3]. Đây là nền tảng ổn định, giúp kinh tế Việt Nam ít phụ thuộc vào biến động bên ngoài.
Thứ ba, nhân tố đầu tư công, thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI)
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 6 tháng đầu năm 2025 đạt 1,732 triệu tỷ đồng, tăng 8,9% so với cùng kỳ. Đầu tư công giải ngân đạt 291,1 nghìn tỷ đồng, bằng 31,7% kế hoạch năm, tăng 19,8%[4]. Đây là động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng, đặc biệt ở các lĩnh vực hạ tầng giao thông, năng lượng tái tạo, thủy lợi. Riêng đầu tư FDI, Việt Nam thu hút 11,72 tỷ USD, tăng 8,1%, cao nhất trong 5 năm gần đây. Các dự án lớn tập trung vào điện tử, công nghệ cao, năng lượng sạch. Việt Nam tiếp tục là lựa chọn quan trọng của các doanh nghiệp, đối tác, nhà đầu tư nước ngoài, Việt Nam hiện là 1 trong 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới và đứng trong nhóm 20 quốc gia hàng đầu về thu hút FDI, nhờ vị thế địa lý và tiềm lực phát triển cao, thuộc nhóm 15 nước đang phát triển thu hút FDI lớn nhất thế giới. Các tập đoàn Samsung, Foxconn, Lego tiếp tục mở rộng sản xuất, cho thấy vị trí của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Thứ tư, nhân tố xuất, nhập khẩu hàng hóa
Trong những đóng góp vào tăng trưởng GDP, xuất nhập khẩu hàng hóa là được xem là điểm sáng nổi bật và cũng là động lực tăng trưởng kinh tế trong 6 tháng đầu năm 2025 nhờ nhu cầu thị trường quốc tế đang trên đà phục hồi. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt 432,03 tỷ USD, tăng 16,1% so với cùng kỳ. Trong đó, xuất khẩu đạt 219,83 tỷ USD (chiếm 14,4%) và nhập khẩu đạt 212,2 tỷ USD (chiếm 17,9%). Theo đó, thặng dư thương mại 7,63 tỷ USD[5]. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực: điện thoại, máy vi tính, dệt may, da giày, nông sản (gạo, cà phê, hạt điều, thủy sản). Việc tận dụng các FTA (EVFTA, CPTPP, RCEP) giúp doanh nghiệp Việt Nam mở rộng thị trường, giảm phụ thuộc vào một số đối tác truyền thống.
Nhìn chung, các động lực tăng trưởng kinh tế chính đang phục hồi khá, dù không đồng đều, nhu cầu tiêu dùng phục hồi cả trong và ngoài nước, xuất khẩu tăng trưởng. Trong khi đó, đầu tư tư nhân cũng phục hồi, thu hút FDI tăng khá và kiều hối tăng tích cực. Bên cạnh đó, nền tảng vĩ mô; các rủi ro tài khóa như thâm hụt ngân sách, nợ công, nợ nước ngoài đều ở mức trung bình. Điều này khiến dư địa chính sách tài khóa vẫn còn. Hiện lạm phát tuy tăng nhưng trong tầm kiểm soát, lãi suất giảm, nợ xấu tăng trong tầm kiểm soát, trong khi tỉ giá dần ổn định là những nhân tố tích cực cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế thế giới đang trải qua những điều chỉnh căn bản, sâu sắc và sự cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế tiếp tục diễn ra gay gắt đã ảnh không nhỏ đến quan hệ kinh tế, thương mại giữa các nước.... Ở trong nước, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn tồn tại những điểm nghẽn cản trở quá trình phát triển như: tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa đạt mục tiêu đề ra; cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm; năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao. Trong khi đó, công nghiệp hóa là đầu tàu phát triển nhưng cơ cấu còn mỏng, lắp ráp và gia công là chủ đạo nên năng suất lao động thấp, nhất là khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Mặc dù cộng đồng quốc tế vẫn nhìn nhận Việt Nam là một điểm đến hấp dẫn nhờ vị trí địa chính trị chiến lược, lực lượng lao động trẻ và sự hội nhập sâu rộng vào các hiệp định thương mại tự do. Tuy nhiên, song hành với lợi thế, các nhà đầu tư không ngừng bày tỏ lo ngại về những điểm nghẽn thể chế, đặc biệt là thủ tục hành chính phức tạp. Một trong những rào cản lớn nhất chính là giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (IRC). Theo khảo sát do BW Industrial, doanh nghiệp chuyên trong lĩnh vực cho thuê nhà xưởng tại các khu công nghiệp, phối hợp với YKVN, hãng luật chuyên tư vấn cho các nhà đầu tư nước ngoài, thực hiện vào tháng 7/2025 trên 88 doanh nghiệp FDI, có tới 70,1% nhà đầu tư cho rằng IRC trùng lặp với giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (ERC), 47,1% phản ánh thời gian xử lý kéo dài ít nhất 2 tháng thay vì 15 – 30 ngày theo quy định và 72,4% đề nghị bãi bỏ hoàn toàn thủ tục này[6].
Trong bối cảnh phát triển mới hiện nay, để Việt Nam đạt mức tăng trưởng hai con số cho các giai đoạn tiếp theo đòi hỏi Chính phủ cần tiếp tục ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng gắn với kiểm soát lạm phát, khai thác dư địa chính sách tài khóa có trọng tâm. Các cơ quan cần gỡ vướng để vận hành thông suốt chính quyền địa phương, đồng thời hoàn thiện thể chế, tăng ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, tạo những yếu tố đột phá để thu hút FDI, thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất kinh doanh, phấn đấu đạt mức tăng trưởng khoảng 8% trong năm 2025 và tăng trưởng kinh tế từ hai con số trở lên. Để đạt tốc độ tăng trưởng cao trong những năm tới, Việt Nam cần tạo ra các động lực tăng trưởng mới phù hợp với bối cảnh tình hình thế giới và thực tiễn của Việt Nam.
Hàm ý chính sách
Một là, cần tập trung thực hiện quyết liệt 3 đột phá chiến lược gồm thể chế, hạ tầng, nhân lực theo tinh thần “thể chế thông thoáng, hạ tầng thông suốt, nhân lực và quản trị thông minh”. Trong đó, chính sách tập trung hoàn thiện thể chế là “đột phá của đột phá”, cắt giảm thủ tục hành chính, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Đồng thời, cần huy động mọi nguồn lực từ Nhân dân và mọi thành phần kinh tế bằng cách xây dựng một nền hành chính hiệu quả, năng động và môi trường đầu tư kinh doanh an toàn, minh bạch, chi phí thấp, đạt chuẩn quốc tế để thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp và sự vươn lên làm giàu của doanh nhân, cũng như mọi tầng lớp xã hội.
Hai là, hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật để đảm bảo minh bạch, tiến bộ, công bằng, khắc phục những chồng chéo, bất cập nhằm tạo bước đột phá phát triển kinh tế đất nước. Mặt khác, tiếp tục hoàn thiện cơ chế thử nghiệm (sandbox) để hỗ trợ phát triển kinh tế số, kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn. Đồng thời, cần thực hiện cải cách mạnh mẽ hệ thống tài chính, ngân hàng, tiền tệ. Chú trọng chuyển đổi số quốc gia, ứng dụng công nghệ số, nhất là trong các lĩnh vực thuế, hải quan, kho bạc nhà nước, góp phần cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Tập trung đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong các ngành và lĩnh vực trong kỷ nguyên số như chip bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, Internet vạn vật, quang điện tử…, để đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và nhà đầu tư, nâng cao năng suất lao động.
Ba là, tập trung chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, lấy khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo làm động lực chính để phát triển các ngành kinh tế chủ lực, hướng tới nâng cao tính độc lập, tự chủ, tự cường của nền kinh tế trong quá trình hội nhập quốc tế. Quan tâm phát triển các thị trường truyền thống, đồng thời, chú trọng tìm kiếm và mở rộng thị trường mới cho hàng hóa, dịch vụ và lao động Việt Nam sang các nước châu Âu, nhóm các nước phát triển. Đẩy mạnh khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước như tài nguyên, lao động, kết hợp với các nguồn lực bên ngoài như vốn, khoa học và công nghệ, kinh nghiệm quản lý để đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Bốn là, phát huy tiềm lực của khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước, đặc biệt các doanh nghiệp có khả năng làm chủ công nghệ. Thúc đẩy đầu tư hạ tầng nền kinh tế theo hướng tăng tỉ lệ đầu tư theo phương thức đối tác công - tư (PPP). Tích cực hỗ trợ, hướng dẫn các đơn vị sản xuất, kinh doanh cá thể hoặc siêu nhỏ trở thành những doanh nghiệp có tổ chức ngày càng lớn mạnh, cũng như hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) trong việc tiếp cận với nguồn vốn và đất để đầu tư. Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp trong nước tham gia khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, cải tiến kỹ thuật, công nghệ sản xuất để nâng cao hiệu quả kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Đây là tiền đề để tăng năng suất, là cơ sở để xây dựng nền kinh tế tự chủ trong hội nhập và tận dụng có hiệu quả các nguồn lực.
Năm là, khai thác mạnh mẽ các động lực tăng trưởng trong nước, đặc biệt là công nghệ chuyển đổi số, huy động nguồn vốn trong nước và cả nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, đặc biệt hỗ trợ các động lực tăng trưởng mới từ đổi mới sáng tạo, công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách nhằm thu hút FDI vào các lĩnh vực công nghiệp bán dẫn, công nghệ AI, Fintech, thực tế ảo, Blockchain. Đồng thời, cần đầu tư có trọng tâm và trọng điểm để đảm bảo chất lượng hạ tầng, cũng như các dịch vụ hỗ trợ nhằm đáp ứng các nhà đầu tư chất lượng cao; ưu tiên các trung tâm kinh tế và lĩnh vực thúc đẩy nâng cao năng suất cho Việt Nam.
Như vậy, kết quả tăng trưởng GDP 7,52% trong 6 tháng đầu năm 2025 là minh chứng cho sức bật mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam, tạo tiền đề quan trọng để kinh tế Việt Nam đạt mức tăng trưởng hai con số trong thời gian tới. Có thể nói, các nhân tố tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2025 là nông nghiệp, công nghiệp chế biến chế, dịch vụ; tiêu dùng nội địa; đầu tư công và thu hút FDI. Với đà tăng trưởng tích cực, cùng sự điều hành quyết liệt của Chính phủ, sự năng động của doanh nghiệp và niềm tin của người dân, Việt Nam hoàn toàn có cơ sở để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP trên 8% năm 2025, đồng thời tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn phát triển bền vững, hiện đại và hội nhập sâu rộng.
[1] Cục Thống kê (2025). “Những nhân tố góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế Việt Nam sáu tháng đầu năm 2025”, truy cập tại trang https://www.nso.gov.vn/, [cập nhật ngày 9/7/2025].
[2] Cục Thống kê (2025). “Những nhân tố góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế Việt Nam sáu tháng đầu năm 2025”, truy cập tại trang https://www.nso.gov.vn/, [cập nhật ngày 9/7/2025].
[3] Cục Thống kê (2025). “Những nhân tố góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế Việt Nam sáu tháng đầu năm 2025”, truy cập tại trang https://www.nso.gov.vn/, [cập nhật ngày 9/7/2025].
[4] Cục Thống kê (2025). “Những nhân tố góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế Việt Nam sáu tháng đầu năm 2025”, truy cập tại trang https://www.nso.gov.vn/, [cập nhật ngày 9/7/2025].
[5] Cục Thống kê (2025). “Những nhân tố góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế Việt Nam sáu tháng đầu năm 2025”, truy cập tại trang https://www.nso.gov.vn/, [cập nhật ngày 9/7/2025].
[6] Vũ Ngọc Bảo, Trần Thị Thanh Hảo (2025). “Khi thủ tục thừa làm mất cơ hội đầu tư”, báo Tuổi trẻ, ngày 4/10/2025, tr. 6.
Tài liệu tham khảo:
- Vũ Ngọc Bảo, Trần Thị Thanh Hảo (2025). “Khi thủ tục thừa làm mất cơ hội đầu tư”, báo Tuổi trẻ, ngày 04/10/2025.
- Phạm Minh Chính (2025). “Đổi mới, sáng tạo, tăng tốc, bứt phá, đưa đất nước vững bước tiến vào Kỷ nguyên mới, phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc”, báo Tuổi trẻ, ngày 02/01/2025.
- Cục Thống kê (2025). “Những nhân tố góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế Việt Nam sáu tháng đầu năm 2025”, truy cập tại trang https://www.nso.gov.vn/, [cập nhật ngày 09/7/2025].
- Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t. I, II.
- Trần Thanh Mẫn (2025). “Một số quy định chưa theo kịp thực tiễn”, báo Tuổi trẻ, ngày 23/9/2025.
- Phạm Ngọc Hòa (2024). Đổi mới và phát triển ở Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn. Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.


















