A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Việt Nam là một trong những nền kinh tế hoạt động hiệu quả hàng đầu ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương

Theo bà Era Dabla - Norris, bất chấp một số tin tức cho thấy tình hình kinh tế có vẻ yếu đi trong những tuần gần đây, Việt Nam vẫn đang trên đà đạt mức tăng trưởng vượt 7% trong năm 2022. Việt Nam chắc chắn sẽ là một trong những nền kinh tế hoạt động hiệu quả hàng đầu ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương năm 2022.

Bà Era Dabla – Norris, Trưởng phái đoàn Việt Nam Trợ lý Vụ trưởng Vụ châu Á – Thái Bình Dương, Quỹ Tiền tệ Quốc tế

Phóng viên: Tại báo cáo cập nhật mới nhất về tình hình kinh tế các khu vực trên thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đã điều chỉnh giảm triển vọng GDP các nước châu Á - Thái Bình Dương trong môi trường bất ổn toàn cầu, trong đó kinh tế Việt Nam được dự báo là tăng trưởng ở mức 7% trong năm 2022 và 6,2% trong năm 2023. Xin bà vui lòng chia sẻ những nhận định về kinh tế Việt Nam trong năm 2022 và triển vọng cũng như những thách thức chính trong năm 2023?

Bà Era Dabla-Norris: Việt Nam chắc chắn sẽ là một trong những nền kinh tế hoạt động hiệu quả hàng đầu ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương năm 2022. 9 tháng đầu năm chứng kiến ​​sự phục hồi nhanh chóng trong hoạt động kinh tế khi các hạn chế phòng dịch COVID-19  được dỡ bỏ. Tăng trưởng GDP thực đạt 8,8% trong ba quý đầu năm 2022. Tăng trưởng trên diện rộng, được thúc đẩy bởi sản lượng sản xuất mạnh mẽ, xuất khẩu khởi sắc, doanh số bán lẻ phục hồi và lượng khách du lịch trở lại tương đương với mức của năm 2021. Bất chấp một số tin tức cho thấy tình hình kinh tế có vẻ yếu đi trong những tuần gần đây, Việt Nam vẫn đang trên đà đạt mức tăng trưởng vượt 7% trong năm 2022, đây có thể sẽ là mức tăng trưởng cao nhất trong khu vực.

Đồng thời, lạm phát trung bình ở Việt Nam thấp hơn hầu hết các nước trong khu vực và thấp hơn mục tiêu 4% của Chính phủ, mặc dù lạm phát đã tăng lên trong thời gian gần đây. Người tiêu dùng hầu như không bị ảnh hưởng bởi tình trạng giá lương thực tăng vọt trên toàn cầu do nguồn cung trong nước dồi dào, giá thịt lợn giảm so với mức cao nhất của năm ngoái và gạo - loại lương thực được ưa chuộng vẫn rẻ hơn lúa mì và các loại ngũ cốc khác.

Tuy nhiên, điều đó cũng cho thấy, “những cơn gió ngược bên trong và bên ngoài” sẽ tạo ra một môi trường đầy thách thức hơn vào năm 2023.

Các cải cách để cải thiện môi trường kinh doanh, tăng năng suất (đặc biệt là của các doanh nghiệp trong nước), nâng cao tay nghề cho người lao động và tiếp tục số hóa nền kinh tế vẫn là những ưu tiên hàng đầu.

Đầu tiên, các điều kiện toàn cầu rất không chắc chắn và rủi ro đang nghiêng về phía tiêu cực. Giá cả hàng hóa toàn cầu tăng cao và không ổn định, tăng trưởng yếu hơn ở các đối tác thương mại lớn và thắt chặt các điều kiện tài chính toàn cầu sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế.

Thứ hai, rủi ro lạm phát gia tăng ở Việt Nam. Trong khi lạm phát trong nửa đầu năm 2022 chỉ giới hạn ở một số hàng hóa như nhiên liệu và các dịch vụ sử dụng nhiều nhiên liệu như vận tải thì thời gian gần đây, áp lực lạm phát đã gia tăng và lan ra nhiều ngành công nghiệp hơn.

Thứ ba, “sóng gió” gần đây của thị trường tài chính là một nguyên nhân bổ sung gây lo ngại. Sự cố tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB) vào tháng 10/2022, mặc dù chỉ diễn ra trong thời gian ngắn, nhưng đã làm gia tăng sự lo lắng trên thị trường tài chính. Các đợt phát hành trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã cạn kiệt và các khoản mua lại đang gia tăng trong bối cảnh niềm tin của nhà đầu tư giảm sút và chi phí vốn tăng lên. Ngoài ra, việc tăng lãi suất ở các nền kinh tế phát triển đã gây áp lực giảm giá đối với Đồng Việt Nam (mất giá 9% trong năm 2022 so với đồng USD), trước khi phục hồi một phần trong những tuần gần đây.

Những áp lực này, cùng với tăng trưởng toàn cầu bị đình trệ tạo ra một môi trường kinh tế đầy thách thức cho Việt Nam vào năm 2023. Chúng tôi dự báo tốc độ tăng trưởng sẽ chậm lại và nằm trong khoảng 5,5 đến 6%. Mức tăng trưởng này được thúc đẩy bởi một số yếu tố như: Hoạt động sản xuất trong nước (và xuất khẩu) dự kiến ​​sẽ chậm lại do nhu cầu bên ngoài yếu hơn, trong đó tiêu dùng và đầu tư trong nước chỉ phục hồi một phần do nhu cầu duy trì ổn định kinh tế vĩ mô; Lạm phát dự kiến ​​sẽ tăng nhanh, nhưng nếu chính sách tiền tệ tiếp tục được duy trì, có khả năng sẽ kiểm soát được lạm phát.

Những dự báo này có mức độ không chắc chắn rất cao do môi trường toàn cầu không chắc chắn. Chúng tôi nhận thấy những rủi ro đối với tăng trưởng nghiêng về chiều hướng tiêu cực, vì sự suy giảm hơn nữa có thể xảy ra nếu suy thoái toàn cầu trở nên nghiêm trọng hơn, hoặc lạm phát trong nước trở nên trầm trọng hơn so với dự đoán.

Phóng viên: Để vượt qua những thách thức trong thời gian tới và đạt được những mục tiêu phát triển, bà có những khuyến nghị gì đối với Việt Nam?

Bà Era Dabla-Norris:  Mục tiêu tổng thể của các chính sách trong ngắn hạn là điều hướng thoát khỏi thời kỳ sóng gió phía trước và duy trì sự ổn định của khu vực tài chính và kinh tế vĩ mô để nền kinh tế được hưởng lợi từ các cơ hội tăng trưởng và phát triển sẽ xuất hiện khi sự suy giảm kinh tế toàn cầu hiện tại dịu bớt.

Điều này có nghĩa là chính sách tiền tệ và tài khóa cần được phối hợp và truyền thông một cách cẩn thận. Về chính sách tiền tệ, cần tập trung vào việc duy trì ổn định giá cả, thắt chặt chính sách tiền tệ khi cần thiết và duy trì quỹ dự trữ bằng cách hạn chế can thiệp ngoại hối. Chính sách tài khóa nên linh hoạt khi đối mặt với những bất ổn gia tăng. Các cơ quan chức năng cần tiếp tục thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội (PRD). Nếu áp lực lạm phát gia tăng, cần tăng cường thực hiện trợ cấp có mục tiêu, hướng đến các hộ gia đình dễ bị tổn thương nhất và các doanh nghiệp có khả năng sống sót thay vì thực hiện các biện pháp kích thích tài khóa trên diện rộng, làm tăng thêm áp lực lạm phát.

Cần bảo vệ sự ổn định của khu vực tài chính và giải quyết tình trạng biến động trên thị trường tài chính. Các biện pháp bao gồm giám sát chặt chẽ tính thanh khoản của ngân hàng, tiếp tục nỗ lực giải quyết vấn đề tập trung rủi ro và quyền sở hữu không minh bạch của các tổ chức tài chính; các chính sách kích thích nhu cầu của nhà đầu tư, giảm rủi ro thanh khoản và  rủi ro chuyển đổi cho các tổ chức phi ngân hàng phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Chính phủ đã có hành động đáng hoan nghênh theo các hướng này.

Về trung hạn/dài hạn, mặc dù Việt Nam đã đạt kỷ lục tăng trưởng ấn tượng trong những thập kỷ qua, nhưng vẫn còn nhiều việc nằm trong danh sách “việc cần làm” để đạt được trạng thái thu nhập cao hơn. Các cải cách để cải thiện môi trường kinh doanh, tăng năng suất (đặc biệt là của các doanh nghiệp trong nước), nâng cao tay nghề cho người lao động và tiếp tục số hóa nền kinh tế vẫn là những ưu tiên hàng đầu. Hơn nữa, giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu và đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng 0 của chính phủ vào năm 2050 sẽ đòi hỏi đầu tư mạnh vào giảm thiểu và thích ứng với khí hậu.

Phóng viên: Trong bối cảnh lãi suất thế giới tăng cao, áp lực lên tỷ giá USD/VND tăng mạnh, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã liên tục có những biện pháp điều hành để ổn định thị trường như điều chỉnh biên độ tỷ giá, tăng lãi suất điều hành... Bà nhận định như thế nào về công tác điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá trong năm qua của NHNN? Bà có những lưu ý gì đối với công tác điều hành chính sách tiền tệ của NHNN thời gian tới?

Bà Era Dabla-Norris: NHNN đã áp dụng quan điểm chính sách tiền tệ hỗ trợ một cách phù hợp để hỗ trợ phục hồi sau đại dịch trong nửa đầu năm 2002. Tuy nhiên, với lãi suất toàn cầu tăng và áp lực lạm phát tiếp tục gia tăng, các chính sách nên xoay trục để tập trung hoàn toàn vào ổn định giá cả như NHNN đã làm. Về mặt này, chúng tôi hoan nghênh các quyết định gần đây về việc mở rộng biên độ tỷ giá hối đoái và tăng lãi suất chính sách lên 200 điểm cơ bản kể từ tháng 9/2022. Nói rộng hơn, tính linh hoạt của tỷ giá hối đoái rất quan trọng vì nó cho phép tỷ giá hối đoái hoạt động như một cơ chế “hấp thụ sốc”, điều này rất quan trọng trong tình huống như ở hiện tại, khi áp lực giảm giá là do các yếu tố cơ bản thúc đẩy, đáng chú ý là chênh lệch lãi suất với đồng USD và việc chọn đồng USD là nơi trú ẩn an toàn.

Dự trữ ngoại hối nên được duy trì để đối phó với những bất ổn thị trường có khả năng tồi tệ hơn trong tương lai. 

Dự trữ ngoại hối nên được duy trì để đối phó với những bất ổn thị trường có khả năng tồi tệ hơn trong tương lai. NHNN nên dựa nhiều hơn vào việc tăng lãi suất trong nước và nhất quán trong các công cụ chính sách tiền tệ khác nhau (nghĩa là trần tăng trưởng tín dụng phù hợp với việc kiềm chế lạm phát). Nếu lạm phát vượt quá 4%, NHNN nên giải thích lý do tại sao điều này xảy ra và lạm phát sẽ được hạ xuống như thế nào. Chúng tôi tin rằng việc giải thích rõ ràng một cách thuyết phục (thay vì tăng mục tiêu) sẽ thể hiện cam kết mạnh mẽ của NHNN đối với việc ổn định giá cả và có lợi về lâu dài.

Phóng viên: Theo bà, trong tình hình hiện nay, hệ thống ngân hàng Việt Nam cần cải thiện những vấn đề gì để nâng cao sức khỏe, tăng cường sức chống chịu?

Bà Era Dabla-Norris:  Chi phí vốn tăng, điều kiện thanh khoản ngân hàng thắt chặt hơn và hoạt động chậm lại trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp đều đặt ra những thách thức quan trọng đối với hệ thống ngân hàng và khách hàng của ngân hàng. Trước những rủi ro này, các ngân hàng và NHNN cần tiếp tục cảnh giác và thực hiện các bước thích hợp để đảm bảo ổn định tài chính.

Đầu tiên, các ngân hàng nên giám sát chặt chẽ rủi ro, đặc biệt là mức độ tập trung rủi ro đối với các ngành và doanh nghiệp cụ thể, đặc biệt chú ý đến các phân khúc rủi ro hơn như lĩnh vực bất động sản. Thứ hai, các ngân hàng nên duy trì việc tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu về an toàn vốn và thanh khoản theo quy định, đồng thời tiếp tục xây dựng bộ đệm của mình càng nhiều càng tốt. Cuối cùng, các ngân hàng nên tiến hành kiểm tra khả năng thanh toán và mức độ căng thẳng thanh khoản thường xuyên để đảm bảo rằng bộ đệm của mình đủ để chống chọi với những đợt suy thoái bất lợi và vẫn tuân thủ các quy định.

Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn bà!


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Tin liên quan