UOB: Tỷ giá VND/USD sẽ giữ quỹ đạo tăng trong 2023
Tín hiệu "hạ áp" đối với tỷ giá VND/USD đang khá tích cực kể từ tháng 12 và đặc biệt khi Ngân hàng Nhà nước chào mua ngoại tệ, bắt đầu củng cố trở lại dự trữ ngoại hối quốc gia.
Tuy nhiên, trong một dự báo khá thận trọng, bộ phận Global Economics & Markets Research của Ngân hàng UOB cho rằng chiến lược ngoại hối của Việt Nam năm 2023 sẽ giữ quỹ đạo tăng.
2022: Tăng trưởng mạnh nhưng có dấu hiệu suy giảm
Báo cáo của UOB đánh giá, tăng trưởng GDP thực của Việt Nam trong Quý 4 năm 2022 bình thường trở lại với tốc độ tăng bền vững hơn ở mức 5,92% so với cùng kỳ, sau khi tăng mạnh 13,67% trong Quý 3 năm 2022, khi nhu cầu bên ngoài có dấu hiệu sụt giảm. Nhìn chung cả năm, GDP của Việt Nam tăng 8,02%, từ mức 2,58% ở năm 2021, đây là kết quả tăng trưởng tốt nhất kể từ năm 1997.
UOB dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2023 ở khoảng 6,6%. Nguồn: UOB
Mặc dù dữ liệu cả năm cho thấy kết quả tăng trưởng mạnh trên bình diện chung, nhưng khi phân tích chi tiết dữ liệu, các dấu hiệu của sự suy giảm tăng trưởng khá rõ ràng và đáng quan ngại, vì lĩnh vực sản xuất hầu như không mở rộng trong khi xuất khẩu ghi nhận tháng giảm thứ hai liên tiếp vào tháng 12. Tuy nhiên, điều này đã được bù đắp bởi sự tăng trưởng mạnh mẽ của các lĩnh vực kinh tế trong nước bao gồm bán lẻ và dòng vốn đầu tư.
Cụ thể, các dấu hiệu đáng lưu ý về suy giảm tăng trưởng khá rõ ràng và đáng quan ngại, gồm:
Sản lượng của ngành sản xuất trong Quý 4 năm 2022 giảm mạnh xuống mức 3,63% so với cùng kỳ, từ mức tăng 15,24% trong Quý 3 năm 2022, xuống mức tăng nhỏ nhất trong năm 2022. Trong tháng 12 năm 2022, sản lượng sản xuất chỉ tăng 0,56% so với cùng kỳ, tháng thứ 4 ghi nhận tốc độ tăng trưởng chậm lại sau khi đạt mức cao nhất là 16,23% vào tháng 8 năm 2022. Điều này cũng phản ánh nhu cầu bên ngoài suy giảm khi cả xuất khẩu và nhập khẩu đều suy giảm ở tháng thứ hai liên tiếp trong tháng 12, tương ứng là -14% và -8,1% so với cùng kỳ. Bất chấp đà thương mại suy yếu, Việt Nam vẫn ghi nhận thặng dư thương mại 10,4 tỷ USD trong năm, gấp hơn 3 lần so với mức 3,4 tỷ USD của năm 2021, đây là năm xuất siêu thứ 7 liên tiếp.
Chỉ số Quản lý thu mua (PMI) của ngành sản xuất cũng đang báo hiệu sự suy yếu trong thời gian tới đối với một số nền kinh tế trong khu vực, bao gồm cả Trung Quốc, Malaysia và Singapore, khi PMI Việt Nam giảm xuống 47,4 vào tháng 11 từ mức 50,6 vào tháng 10, lần đầu tiên ghi nhận chỉ số dưới 50 trong 14 tháng.
Tuy nhiên, các động lực thúc đẩy tăng trưởng nội địa vẫn ổn định và có khả năng sẽ tiếp tục dẫn dắt tăng trưởng trong năm 2023. Tổng thể ngành thương mại bán lẻ tăng 17,1% so với cùng kỳ trong tháng 12, kéo dài mức tăng 17,5% trong tháng 11 nhờ doanh số bán lẻ, dịch vụ lưu trú và ăn uống, du lịch tiếp tục tăng mạnh. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt mức kỷ lục 22,4 tỷ USD trong năm 2022, từ mức 19,7 tỷ USD năm 2021 và cao hơn gần 10% so với kỷ lục trước đó là 20,4 tỷ USD vào năm 2019. Tuy nhiên, dòng vốn FDI nhiều khả năng sẽ suy giảm lại trong thời gian tới, dựa trên nguồn vốn FDI đã đăng ký, vốn chỉ đạt 27,7 tỷ USD vào năm 2022 so với mức 31,2 tỷ USD vào năm 2021 và là mức thấp nhất kể từ năm 2016.
>> Chính sách tiền tệ 2023: Dịch chuyển theo hướng kiềm giữ đà tăng lãi suất
Giá tiêu dùng tại Việt Nam đang có dấu hiệu chịu áp lực gia tăng khi tỷ lệ lạm phát có xu hướng tăng trong 3 tháng liên tiếp kể từ tháng 9 năm 2022 và vượt mục tiêu 4% trong tháng thứ ba liên tiếp vào tháng 12 năm 2022, bất chấp việc triển khai các biện pháp hành chính để bù việc tăng giá. CPI tổng thể trong tháng 12 năm 2022 tăng 4,55% so với cùng kỳ, trong khi CPI cơ bản tăng 4,99% so với cùng kỳ, đây là tháng thứ ba có chỉ số trên 4%. Đóng góp chính là chi phí thực phẩm, nhà ở, xây dựng và giáo dục trong khi áp lực từ chi phí vận chuyển đã giảm đáng kể trong những tháng gần đây. Trong cả năm, chỉ số giá CPI tăng 3,15% so với cùng kỳ so với mức 1,84% vào năm 2021. Lạm phát cơ bản là một mối lo ngại khác khi đã tăng trung bình 2,61% vào năm 2022 từ mức 0,81% của năm trước.
Triển vọng tăng trưởng vừa phải trong năm 2023
Sự tăng trưởng mạnh mẽ trong năm 2022 cho thấy sự bền bỉ cùng với khả năng phục hồi của Việt Nam sau những thiệt hại do đại dịch COVID-19 gây ra, đặc biệt là vào cuối năm 2021, phần lớn nhờ vào các lĩnh vực kinh tế đa dạng trong ngành sản xuất và dịch vụ.
Diễn biên lãi suất điều hành của Việt Nam, sự thay đổi 2 lần kể từ 2020 đang thay đổi mặt bằng lãi suất và chi phí vốn. Nguồn: UOB
Tuy nhiên, báo cáo đánh giá sự phục hồi mạnh mẽ khó có thể bền vững và động lực tăng trưởng về tổng thể có thể sẽ suy giảm hơn nữa vào năm 2023, do việc thắt chặt chính sách tiền tệ từ các ngân hàng trung ương lớn ảnh hưởng đến nhu cầu bên ngoài, đặc biệt là từ Hoa Kỳ và Châu Âu, chiếm 41% tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam. Thêm vào đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cũng đã thắt chặt chính sách trước áp lực lạm phát và đồng VND suy yếu, mặc dù nhu cầu trong nước có thể sẽ dẫn dắt tăng trưởng vào năm 2023 với thu nhập gia tăng và triển vọng kinh doanh được cải thiện. Do đó, UOB giữ nguyên dự báo tăng trưởng GDP năm 2023 ở mức 6,6%, phù hợp với dự báo chính thức là 6,5%. Đây là mức dự báo tương đồng với mức mà IMF và WB đã đưa ra cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2023.
Với tỷ lệ lạm phát có khả năng duy trì ổn định, đặc biệt là trong nửa đầu năm 2023, theo UOB, NHNN dự kiến sẽ cân bằng chính sách tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng đồng thời duy trì sự ổn định giá cả và đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng. Cuối tháng 12 vừa qua, NHNN cho biết sẽ điều hành chính sách tiền tệ “một cách linh hoạt” để giữ lạm phát ở mức 4,5% vào năm 2023, nhằm “ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối để đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng”.
"Tóm lại, trong khoảng thời gian từ tháng 9 đến tháng 11, NHNN đã bắt tay vào thực hiện một loạt các chính sách điều hành trước sự quyết liệt của Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (Fed), sức mạnh của đồng USD và áp lực lạm phát. Ngân hàng trung ương bất ngờ tăng lãi suất cơ bản thêm 100 điểm cơ bản vào ngày 22 tháng 9, sau đó là một đợt tăng 100 điểm cơ bản khác một tháng sau đó (24 tháng 10). Giữa lúc đó, vào ngày 17 tháng 10 NHNN đã công bố mở rộng biên độ giao dịch VND/USD từ +/-3% lên +/-5%, để cho phép VND linh hoạt hơn trong bối cảnh đồng USD mạnh lên. Với việc tăng lãi suất liên tiếp một cách nhanh chóng, NHNN có thể sẽ không có các quyết định mới trong thời gian còn lại của năm 2022 để đánh giá tác động của những quyết sách đã thực hiện trước đó.
Do đó, UOB dự báo khả năng NHNN thực hiện một đợt tăng lãi suất 100 điểm cơ bản khác vào đầu năm 2023, và có thể tạm ngừng từ đó, phù hợp với quan điểm của ngân hàng về quỹ đạo chính sách của Cục Dự Trữ Liên Bang Mỹ (Fed)", báo cáo nhận định.
Như vậy, UOB là định chế tiếp sau Maybank IBG "mạnh dạn" dự báo NHNN sẽ tiếp tục tăng lãi suất cơ bản, "bắt nhịp" với xu hướng tăng lãi suất vẫn còn của Fed. Tuy nhiên, theo Maybank IBG, khả năng NHNN sẽ có đợt tăng lãi suất 50 điểm cơ bản ngay đầu quý I và sau đó tạm ngừng, mức thấp hơn dự báo của UOB. Trong khi đó, nhiều định chế trong nước đã có dự báo cho rằng NHNN sẽ lựa chọn ưu tiên mục tiêu kiềm giữ lãi suất, không tăng thêm lãi suất điều hành và thậm chí có thể nới lỏng tiền tệ có thận trọng để quan sát.
Về mặt lý thuyết, khi Fed tăng lãi suất cơ bản lên một mức nhất định, giả định đợt tăng lãi suất dự kiến trong tháng 1 là 50 điểm cơ bản, thì các nền kinh tế theo sau có quan hệ nội tệ neo với USD và độ mở lớn, thường sẽ phải bắt theo quỹ đạo tăng lãi suất ở mức tương đương hoặc hơn (50 hoặc 75, hoặc thậm chí 100 điểm cơ bản). Thực tế sau giai đoạn "nén" lãi suất trước quỹ đạo của Fed, NHNN đã tăng lãi suất đều cao hơn mức Fed điều chỉnh trong tháng 9 và dự kiến điều chỉnh trong tháng 10/2022. Tuy nhiên, với chính sách đa mục tiêu và nỗ lực "nén" lãi suất để vừa hỗ trợ tăng trưởng kinh tế vừa đáp ứng nhu cầu lại, vừa không thể để mất giá đồng nội tệ quá mạnh, NHNN chắc chắn sẽ phải có những lựa chọn nhất định, không thể hoàn toàn "bắt nhịp" chung cùng Fed. Lợi thế lớn của Việt Nam lúc này theo giới chuyên môn là lạm phát vẫn tiếp tục giữ ổn định ở mức thấp và tỷ lệ thất nghiệp thấp, tăng trưởng kinh tế vẫn đang tạo đà cho 2023.
Sự phục hồi gần đây của VND có thể không kéo dài
Riêng về chiến lược ngoại hối, UOB ghi nhận Đồng Việt Nam đã tăng trở lại từ mức 24.500/USD hồi đầu tháng 12 lên mức hiện tại khoảng 23.630/USD. Động thái này trùng hợp với sự phục hồi của đồng CNY khi các biện pháp kiềm chế COVID-19 được nới lỏng, cổ vũ cho những suy đoán về việc nền kinh tế Trung Quốc sẽ mở cửa trở lại sớm hơn dự kiến. Cùng với việc Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, không có gì ngạc nhiên khi VND có mối tương quan chặt chẽ với CNY. Sự suy yếu của đồng CNY kéo dài do những lo ngại về tăng trưởng và chính sách không COVID đã khiến đồng VND rơi xuống mức thấp kỷ lục mới là 24.874 /USD vào đầu tháng 11 bất chấp các yếu tố cơ bản trong nước mạnh mẽ.
Tỷ giá VND/USD theo UOB sẽ duy trì đà tăng, bất chấp tỷ giá hiện tại đã hạ nhiệt và thấp hơn nhiều so với giai đoạn căng thẳng tháng 11/2022. Ảnh minh họa
Trong khi các thị trường ủng hộ việc Trung Quốc mở cửa trở lại sớm hơn dự kiến, thì quỹ đạo phục hồi của quốc gia này khó có thể diễn ra suôn sẻ do sự gia tăng nhanh chóng của các ca nhiễm COVID-19. Suy thoái dự kiến diễn ra ở các nền kinh tế phương Tây như Mỹ, Anh và khu vực đồng Euro có khả năng làm tăng thêm những bất ổn. Theo đó, bộ phận Global Economics & Markets Research của Ngân hàng UOB tiếp tục duy trì đà tăng của VND/USD với dự đoán đạt mức 25.200đ trong quý 1/2023, 25.400đ trong quý 2/2023, 25.600đ trong quý 3/2023 và 25.800 trong quý 4/2023.