A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Chuyên gia WB: Chính sách cần thận trọng, linh hoạt

Trao đổi với Thời báo Ngân hàng, bà Dorsati Madani - Chuyên gia kinh tế cao cấp của WB đưa ra nhiều nội dung đáng chú ý về triển vọng kinh tế và những rủi ro cần tập trung hóa giải trong thời gian tới.

chuyen gia wb chinh sach can than trong linh hoat
Bà Dorsati Madani

Tại Báo cáo cập nhật mới đây, WB dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam có thể đạt 7,5% năm nay, tức điều chỉnh tăng tới 1,7%. Đâu là lý do dẫn đến sự điều chỉnh này, thưa bà?

Trong lần dự báo trước, khi đó chúng tôi dự kiến cầu trong nước sẽ chưa phục hồi mạnh mà chúng ta đều biết rằng, nhu cầu trong nước là một trong những động lực chính để dẫn dắt tăng trưởng.

Một quan ngại nữa là việc Trung Quốc đã có một vài tháng hạn chế rất chặt việc vận chuyển và đi lại để chống đợt bùng phát Covid. Vì Trung Quốc là một đối tác xuất, nhập khẩu quan trọng của Việt Nam, nên khi Trung Quốc thực hiện chính sách này vừa ảnh hưởng đến nhập khẩu hàng hóa nguyên liệu, vừa ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Trung Quốc.

Tuy nhiên, chúng ta thấy trong thời gian qua nhu cầu trong nước phục hồi mạnh và điều này làm chúng tôi rất ngạc nhiên, nhất là trong quý II vừa qua và đặc biệt là sự phục hồi rất tích cực của khu vực dịch vụ. Hơn nữa đến hết tháng 7 vừa qua, thương mại với Trung Quốc cũng đã được phục hồi...

Cùng với đó, sự phục hồi của nền kinh tế trong năm 2022 dự kiến tiếp tục được hưởng lợi nhờ chính sách tiền tệ (CSTT) và Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế 2022-2023. Trong khi đó, áp lực lạm phát tiếp tục tăng trong nửa cuối năm 2022 nhưng dự kiến lạm phát bình quân cả năm chỉ vào khoảng 3,8%... Với những yếu tố như vậy, cùng với mức nền tăng trưởng thấp của năm ngoái, là những động lực, cơ sở để chúng tôi đi đến những dự báo với những điều chỉnh dự báo như vừa công bố gần đây.

Nhưng ngay cả khi đạt được mức tăng trưởng 7,5% này Việt Nam vẫn chưa quay về được mức tiềm năng tăng trưởng đầy đủ năm 2022 như báo cáo Điểm lại mới nhất nhận định. Vậy theo bà, cần thêm các điều kiện, cơ sở gì để quay về được mức tiềm năng tăng trưởng đầy đủ?

Bạn biết tại sao không? Vì trước đó nền kinh tế trải qua 2 năm (2020 và 2021) tăng trưởng rất thấp so với xu hướng tăng trưởng có được của nền kinh tế trong 10 năm qua. Do đó, ngay cả khi năm nay có được mức tăng trưởng rất tốt (như ở mức 7,5% mà chúng tôi dự báo hiện nay) thì cũng chưa đủ để khẳng định đã quay về được mức tiềm năng tăng trưởng đầy đủ. Do đó, hy vọng nếu năm tới (2023) kinh tế tiếp tục có một năm nữa tăng trưởng tốt (như chúng tôi dự báo hiện nay ở mức 6,7%) thì lúc đó chúng ta có thể sẽ khẳng định được là Việt Nam đã quay về được mức tăng trưởng tiềm năng.

Vậy các thách thức chính với nền kinh tế trong ngắn và trung hạn là gì, thưa bà?

Về cơ bản nền kinh tế có triển vọng tích cực. Tuy nhiên, viễn cảnh nền kinh tế trong trung hạn phải đối mặt với những rủi ro lớn, có thể gây ảnh hưởng đến tăng trưởng. Ngay trong ngắn hạn năm nay, dự báo cơ sở mà chúng tôi đưa ra mới đây cũng còn đối mặt những bất định lớn.

Trong đó, các rủi ro chính từ bên ngoài bao gồm: Những biến chủng Covid-19 mới có thể khiến dịch bệnh phức tạp trở lại; Áp lực lạm phát cao kéo dài và khả năng CSTT bị thắt chặt mạnh hơn nữa ở các nền kinh tế phát triển; Xung đột và căng thẳng địa chính trị gia tăng làm tăng bất định trong ngắn hạn, đồng thời có thể dẫn đến những chuyển đổi cơ cấu dài hạn trong nền kinh tế toàn cầu.

Trong nước, rủi ro các biến chủng Covid-19 mới xuất hiện và lây lan phức tạp có thể ảnh hưởng đến quá trình phục hồi, nhất là trong các lĩnh vực dịch vụ. Trong khi đó, thiếu hụt lao động tiếp diễn cũng ảnh hưởng đến khả năng phục hồi kinh tế. Áp lực lạm phát gia tăng đến từ cả chi phí đẩy và cầu kéo và khi lạm phát kéo dài và cao hơn dự kiến thì có thể tác động trở lại, làm suy giảm quá trình phục hồi, nhất là về đầu tư và tiêu dùng tư nhân. Ngoài ra, rủi ro tài chính có thể tăng lên khi nhìn vào những yếu kém trên bảng cân đối tài sản của khu vực doanh nghiệp, ngân hàng và hộ gia đình, từ đó có thể ảnh hưởng đến quá trình phục hồi của đầu tư và tiêu dùng trong nước.

Vậy bà có các đề xuất chính sách gì để ứng phó với thách thức cũng như hiện thực hóa được triển vọng?

Tình hình hiện nay đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách nhiệm vụ khó khăn là phải cân bằng giữa nhu cầu cung cấp hỗ trợ chính sách liên tục để củng cố sự phục hồi với nhu cầu kiềm chế lạm phát và rủi ro tài chính đang nổi lên. Sự không chắc chắn cao sẽ đòi hỏi các chính sách phải được điều chỉnh cho phù hợp với những hoàn cảnh thay đổi.

Về chính sách tài khóa (CSTK), trong bối cảnh nền kinh tế chưa phục hồi đầy đủ và nhu cầu trên toàn cầu được dự báo sẽ yếu đi, cần giữ quan điểm CSTK theo hướng hỗ trợ. Mặc dù Việt Nam có dư địa tài khóa để hành động, thách thức đặt ra là việc thực thi còn yếu. Giải quyết những tắc nghẽn về thể chế khiến đầu tư công thường xuyên kém hiệu quả sẽ giúp cho CSTK hiệu quả hơn. Trong ngắn hạn, cần tập trung vào việc thực thi đầy đủ gói chính sách hỗ trợ phục hồi, điều này sẽ giúp thúc đẩy sự phục hồi nhu cầu trong nước trong thời gian tới, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng tiềm năng dài hạn của Việt Nam.

Về tiền tệ, do lạm phát cơ bản vẫn trong tầm kiểm soát và nền kinh tế vẫn dưới mức tiềm năng nên CSTT hiện hành vẫn phù hợp trong thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, nếu rủi ro tăng lạm phát xảy ra - với lạm phát cơ bản tăng tốc và lạm phát chung tăng mạnh vượt mức mục tiêu 4% - NHNN nên sẵn sàng chuyển hướng thắt chặt tiền tệ để dập tắt áp lực lạm phát thông qua tăng lãi suất và thắt chặt thanh khoản, đồng thời truyền thông rõ ràng về các quyết định được đưa ra. Trong trung hạn, những cải cách cơ bản hơn nhằm nâng cao khung CSTT và hướng tới lạm phát mục tiêu sẽ nâng cao hiệu lực và hiệu quả của CSTT.

Các rủi ro tài chính mới phát sinh cũng cần được quản lý một cách chủ động để tăng cường khả năng phục hồi của hệ thống tài chính. Ví dụ, nợ xấu và chất lượng tài sản ngân hàng cần được theo dõi chặt chẽ thông qua tăng cường giám sát an toàn, báo cáo, trích lập dự phòng… để nâng cao năng lực xử lý tổn thất và khả năng phục hồi.

Cuối cùng, cải cách cơ cấu sâu hơn là rất quan trọng để hỗ trợ tăng trưởng tiềm năng trong trung hạn và làm cho nền kinh tế linh hoạt hơn và bao trùm hơn. Trong đó cải cách tài khóa cần tập trung vào việc ổn định tạo nguồn thu thông qua cải cách chính sách thuế và nâng cao hiệu quả chi tiêu nhằm mở rộng không gian tài khóa cho chi tiêu, cho các mục tiêu phát triển xã hội, khí hậu và các mục tiêu phát triển khác của Việt Nam. Thúc đẩy đầu tư công và tư nhân nhiều hơn vào thích ứng với biến đổi khí hậu sẽ giúp làm cho nền kinh tế trở nên linh hoạt hơn. Bên cạnh đó, mặc dù nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh là rất quan trọng để tạo việc làm, các nhà hoạch định chính sách cũng nên thực hiện các bước để giảm thiểu tình trạng thiếu kỹ năng, nâng cao chất lượng lực lượng lao động.

Xin cảm ơn bà!

Đỗ Lê thực hiện

Nguồn:

 

 


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết