Ngành công nghiệp hỗ trợ làm gì để thoát cảnh ‘bóng mờ’ trong chuỗi cung ứng FDI?
Chuỗi cung ứng toàn cầu đang tái cấu trúc mạnh mẽ, tạo cơ hội nhưng cũng lộ ra những hạn chế của công nghiệp hỗ trợ Việt Nam. Khi các doanh nghiệp FDI vẫn vận hành mạng lưới khép kín, doanh nghiệp trong nước buộc phải tìm đường nâng năng lực công nghệ, tăng tỷ lệ nội địa hóa và xây dựng liên minh sản xuất nếu muốn bứt phá.
Trong thượng tuần tháng 12/2025 ở Tp.HCM sẽ quy tụ hơn 200 doanh nghiệp (DN) trong hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ cùng các tập đoàn FDI lớn và đại diện của 60 khu công nghiệp để tham dự vào một diễn đàn thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Khả năng kết nối với thị trường FDI còn mờ nhạt
Thông qua diễn đàn này cũng nhằm giúp các DN công nghiệp hỗ trợ nội địa kết nối sâu hơn với các nhà sản xuất đầu chuỗi, đối tác FDI, các tập đoàn sản xuất lớn và các khu công nghiệp trong nước. Như nhấn mạnh của ông Võ Sơn Điền, Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp Hỗ trợ Tp.HCM, điều quan trọng là phải kết nối chuỗi giá trị cũng như khẳng định năng lực nội tại của các DN ngành công nghiệp hỗ trợ trong nước.
|
Các DN công nghiệp hỗ trợ nội địa cần làm chủ công nghệ để kết nối sâu hơn với các đối tác FDI. |
“Chúng tôi sẽ tạo nhiều cơ hội kết nối B2B (DN với DN), B2G (DN với các cơ quan Nhà nước), cũng như xây cầu nối vững chắc giữa các nhà mua hàng (buyers) và các nhà cung ứng (suppliers) nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ”, ông Điền nói.
Có thể thấy việc tạo ra hoạt động kết nối như vậy là rất cần thiết trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu đang tái cấu trúc mạnh mẽ, tạo ra cả cơ hội và sức ép cho công nghiệp hỗ trợ Việt Nam. Trên thực tế, DN công nghiệp hỗ trợ trong nước mặc dù có bước tiến nhưng vẫn còn gặp nhiều hạn chế về công nghệ và khả năng kết nối vẫn còn mờ nhạt với thị trường FDI.
Đơn cử như ở ngành điện tử đang cho thấy công nghiệp hỗ trợ trong nước vẫn chỉ là “bóng mờ” với khối FDI. Trong kết quả nghiên cứu được đưa ra vào cuối tháng 11/2025, nhóm chuyên gia của Khoa Kinh doanh (Đại học RMIT) đã chỉ rõ một thực tại là các doanh nghiệp FDI của Hàn Quốc và Nhật Bản, vốn thống trị ngành điện tử của Việt Nam, có xu hướng vận hành các mạng lưới khép kín, mang theo nhà cung cấp của riêng và hạn chế các mối liên kết với DN địa phương.
Trong khi đó, các nhà đầu tư ASEAN và Trung Quốc trong ngành điện tử lại có phần cởi mở hơn ở một số phân khúc nên DN Việt có thể hưởng lợi (dẫu còn khiêm tốn) về quản lý và công nghệ.
Hay như ngành cơ khí chế tạo. Ông Lê Phụng Thắng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Cơ khí Việt Nam (VAMI), cho biết tỷ lệ nội địa hóa ở nhiều lĩnh vực vẫn còn thấp (như máy động lực, máy công nghiệp nặng, thiết bị y tế...). Chuỗi cung ứng nội địa yếu, thiếu đơn hàng lớn, năng lực đổi mới công nghệ còn hạn chế.
Còn với công nghiệp bán dẫn - một lĩnh vực mà Việt Nam đang đặt nhiều kỳ vọng. Theo chuyên gia Nguyễn Quỳnh Hoa, Trường Kinh tế, Luật và Quản lý Nhà nước thuộc Đại học Kinh tế Tp.HCM (UEH), nhìn lại toàn bộ chuỗi giá trị ngành bán dẫn thì Việt Nam hiện đang đảm nhận chủ yếu khâu cuối: Đóng gói – kiểm thử, là khâu có giá trị thấp nhất, chỉ chiếm 6%.
Vị chuyên gia này cho rằng các tập đoàn hàng đầu đã xây dựng nhà máy đóng gói hay kiểm thử chip, nhà máy sản xuất chất nền đóng gói, bảng mạch in và thiết bị đóng gói bán dẫn tại Việt Nam. Tuy nhiên hiện Việt Nam vẫn chưa có nhà máy sản xuất chip.
Bà Nguyễn Quỳnh Hoa cũng chỉ rõ thực trạng nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn Việt Nam hiện đang thiếu trầm trọng, đặc biệt lực lượng kỹ sư trình độ cao. Ở cấp độ tổng công trình sư trong ngành bán dẫn, những người có thể làm chủ toàn bộ quy trình từ thiết kế chip đến thương mại hóa sản phẩm, thì hiện Việt Nam hoàn toàn thiếu vắng.
“Điều này thật sự là một thách thức đối với các mục tiêu phát triển ngành công nghiệp đòi hỏi trình độ nhân lực rất cao như công nghiệp bán dẫn”, bà Hoa bộc bạch.
Tạo liên minh vững chắc trên “sân nhà”
Có nêu ra những hạn chế như vậy cũng để lý giải phần nào thực trạng “bóng mờ” của ngành công nghiệp hỗ trợ nội địa và rất cần có những bước tiến nhảy vọt để thoát khỏi tình trạng này.
Như vấn đề làm thế nào để các DN công nghiệp hỗ trợ nội địa có “chỗ đứng” trong chuỗi cung ứng của khối FDI ngành điện tử. Theo khuyến nghị từ nhóm nghiên cứu của RMIT, các cơ quan quản lý Việt Nam nên thúc đẩy liên kết sâu hơn giữa DN trong nước và khối FDI thông qua các chính sách khuyến khích sử dụng nguyên vật liệu và nhà cung cấp trong nước.
Song song đó, nhóm nghiên cứu này mong rằng cơ quan quản lý cần khuyến khích các dự án nghiên cứu và phát triển (R&D) và dự án phát triển chung, đặc biệt là với các đối tác trong khối ASEAN và Trung Quốc, những thị trường có xu hướng hợp tác trong chuỗi cung ứng bao trùm hơn. Mặt khác, nên tăng cường năng lực công nghệ và đổi mới sáng tạo trong nước, giúp các DN Việt có thể cạnh tranh ở phân khúc có giá trị gia tăng cao hơn.
Hoặc như giải pháp cho các DN công nghiệp hỗ trợ trong ngành cơ khí chế tạo khi đặt ra mối liên hệ với ngành thép trong nước, theo ông Lê Phụng Thắng, điều cần làm tăng tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm kỹ thuật cao, giảm phụ thuộc nhập khẩu.
Theo ông Thắng, rất cần phát triển hệ sinh thái phụ trợ và nâng cao năng lực nhân lực. Cụ thể là đầu tư phát triển khu công nghiệp phụ trợ, trung tâm R&D, phòng thử nghiệm, trung tâm kiểm định vật liệu, hỗ trợ đào tạo nhân lực kỹ thuật cao cho cả ngành thép lẫn cơ khí.
“Chúng ta cần khuyến khích DN phụ trợ trong nước tham gia sâu vào chuỗi sản xuất, cung cấp linh kiện, vật tư, dịch vụ kỹ thuật, giảm phụ thuộc nhập khẩu”, vị phó chủ tịch của VAMI nói.
Để làm được điều đó, ông Lê Phụng Thắng nhấn mạnh cần thay đổi cách tiếp cận. Tức là không phát triển rời rạc từng DN, từng ngành, mà cần liên kết chặt chẽ giữa DN cơ khí – thép – phụ trợ, cùng Nhà nước, Hiệp hội tạo thành “liên minh sản xuất phụ trợ” mạnh cho các dự án lớn.
Bên cạnh đó, điều mà ngành công nghiệp hỗ trợ nội địa cần làm là phải kiến tạo chuỗi giá trị khép kín. Nhất là chủ động vật liệu trong nước, đồng phát triển sản phẩm, tiêu chuẩn hóa, chuyển đổi số và xanh hóa là nền tảng để nâng cao sức cạnh tranh, giảm chi phí, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Lẽ đương nhiên, để ngành công nghiệp hỗ trợ nội địa có bước tiến nhảy vọt thì Nhà nước nên tiếp tục tạo ra môi trường chính sách ổn định, ưu đãi đầu tư, pháp lý và xúc tiến thương mại. Điều không thể thiếu là trong khâu chính sách nên có yêu cầu ngưỡng nội địa hóa nhất định nhằm đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy và tăng cường mối liên kết giữa doanh nghiệp FDI với các DN công nghiệp hỗ trợ trong nước.
Thế Vinh
























