A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Đằng sau cuộc đua tăng vốn điều lệ của các ngân hàng

Làn sóng tăng vốn điều lệ của các ngân hàng Việt Nam đã âm ỉ từ 2024 và bùng nổ mạnh mẽ trong năm 2025. Hàng loạt ngân hàng, từ tư nhân đến quốc doanh, đều công bố kế hoạch tăng vốn "khủng" thông qua chia cổ tức bằng cổ phiếu, phát hành riêng lẻ hay chào bán cho cổ đông hiện hữu.

Thời gian qua, hàng loạt ngân hàng, từ nhóm quốc doanh đến tư nhân đồng loạt công bố  kế hoạch tăng vốn với tổng giá trị lên đến hàng trăm nghìn tỷ đồng. Các phương thức tăng vốn đa dạng, nhưng phổ biến nhất vẫn là sử dụng lợi nhuận giữ lại để chia cổ tức bằng cổ phiếu. Ngoài ra, các kế hoạch phát hành cổ phiếu cho người lao động (ESOP) và phát hành riêng lẻ cho nhà đầu tư chiến lược, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài cũng đang được đẩy mạnh.

Không còn là cuộc đua quy mô vốn, đằng sau làn sóng này là nhu cầu cấp bách về nguồn vốn trung và dài hạn để hỗ trợ cho nền kinh tế và yêu cầu bắt buộc để đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn vốn.

Dồn dập tăng vốn

Dù đã gần cuối năm, làn sóng tăng vốn điều lệ vẫn rất sôi động. Gần đây nhất, VietABank (VAB) vừa được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chấp thuận tăng vốn điều lệ thêm gần 3,332 tỷ đồng (40.8%) trong năm 2025 lên gần 11,495 tỷ đồng, thông qua phát hành cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu và phát hành cổ phiếu ESOP. Trước đó vào tháng 8/2025, ngân hàng này cũng đã tăng vốn thêm 2,764 tỷ đồng.

Đầu tháng 10, TPBank (TPB) được NHNN chấp thuận tăng vốn điều lệ từ 26,420 tỷ đồng lên mức hơn 27,740 tỷ đồng, thông qua phương án phát hành 132 triệu cp (5%) để chi trả cổ tức cho cổ đông hiện hữu.

Hay như SHB đang lấy ý kiến cổ đông bằng văn bản cho kế hoạch tăng vốn điều lệ thêm 7,500 tỷ đồng trong năm 2025. SHB dự kiến phát hành 750 triệu cp (16.32%); trong đó chào bán 200 triệu cp riêng lẻ cho nhà đầu tư chuyên nghiệp trong và ngoài nước, phát hành 459.4 triệu cp cho cổ đông hiện hữu và 90.6 triệu cp theo chương trình ESOP. Sau khi hoàn tất phát hành, vốn điều lệ SHB sẽ tăng lên mức 53,442 tỷ đồng, dự kiến triển khai trong quý 4/2025 và năm 2026.

Hồi tháng 8, MB (MBB) cũng hoàn tất tăng vốn điều lệ từ 61,023 tỷ đồng lên 80,550 tỷ đồng sau đợt phát hành cổ phiếu trả cổ tức tỷ lệ 32%.

Sau khi tăng vốn điều lệ lên 35,101 tỷ đồng nhờ chia cổ tức bằng cổ phiếu tỷ lệ 20%, HDBank (HDB) tiếp tục thông báo hoàn tất phát hành cổ phiếu để chuyển đổi trái phiếu , qua đó chính thức nâng vốn điều lệ lên hơn 38,594 tỷ đồng. Ngày dự kiến chuyển giao cổ phiếu là trong năm 2025 và đến hết quý 2/2026 sau khi hoàn thành thủ tục phát hành tại các cơ quan chức năng.

Trong bối cảnh hiện nay, Chính phủ cũng thúc đẩy việc tăng vốn cho các ngân hàng thương mại Nhà nước để tăng cường năng lực tài chính. VietinBank (CTG) có kế hoạch phát hành 2.4 tỷ cp để trả cổ tức, nâng vốn điều lệ lên 77,671 tỷ đồng.

ĐHĐCĐ thường niên 2025 của BIDV cũng đã thông qua phương án tăng vốn điều lệ thêm 21,656 tỷ đồng (tương đương 30.8%), lên gần 91,870 tỷ đồng thông qua 3 phương án: Phát hành 498.5 triệu cp từ quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ; phát hành gần 1,397.3 triệu cp để trả cổ tức; và chào bán riêng lẻ hoặc chào bán ra công chúng tối đa 269.8 triệu cp (tỷ lệ 3.84%).

Điều kiện để đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn và nâng vị thế

Bộ đệm vốn dày lên sẽ kéo theo hàng loạt lợi ích cho các ngân hàng. Hoạt động cốt lõi của ngân hàng là cho vay và khả năng cho vay bị giới hạn bởi hạn mức tăng trưởng tín dụng (room tín dụng) được NHNN cấp và tỷ lệ an toàn vốn (CAR).

Công thức tính CAR cơ bản là: CAR = Vốn tự có/ Tổng tài sản có rủi ro quy đổi. Theo quy định, các ngân hàng phải duy trì tỷ lệ CAR tối thiểu là 8%.

Theo công thức trên, vốn điều lệ là cấu phần quan trọng nhất của vốn tự có (vốn cấp 1). Khi vốn tự có tăng lên, ngân hàng sẽ có thêm dư địa để mở rộng tổng tài sản có rủi ro, mà chủ yếu chính là các khoản cho vay.

Nói cách khác, ngân hàng có 100 đồng vốn sẽ chỉ có thể cho vay tối đa X đồng để đảm bảo tỷ lệ CAR 8%. Nhưng nếu ngân hàng tăng vốn lên 120 đồng, họ có thể cho vay X + Y đồng. Hơn nữa, NHNN cũng thường ưu tiên cấp hạn mức tín dụng cao hơn cho những ngân hàng có nền tảng vốn dày hơn, quản trị rủi ro tốt. Vì vậy, tăng vốn đồng nghĩa với việc ngân hàng có thêm dư địa để mở rộng quy mô kinh doanh, tăng khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế và trực tiếp gia tăng lợi nhuận.

Tăng vốn điều lệ là cách trực tiếp và hiệu quả nhất để tăng tỷ lệ CAR. Tỷ lệ CAR cao tương tự với việc ngân hàng có "bộ đệm" vốn dày, đủ sức hấp thụ các khoản lỗ bất ngờ có thể phát sinh từ rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, hay rủi ro hoạt động. Trong bối cảnh nợ xấu tiềm ẩn có nguy cơ gia tăng sau giai đoạn kinh tế khó khăn và các chính sách cơ cấu lại nợ hết hiệu lực, bộ đệm vốn dày là lá chắn an toàn cho chính ngân hàng đó và cho cả hệ thống.

Hơn nữa, không chỉ dừng lại ở Basel II, định hướng của NHNN là tiến tới áp dụng các chuẩn mực của Basel III với các yêu cầu khắt khe hơn. Basel III yêu cầu vốn nhiều hơn và chất lượng hơn (tập trung vào vốn cấp 1), đồng thời bổ sung thêm các tỷ lệ đòn bẩy và tỷ lệ đảm bảo thanh khoản (LCR, NSFR).

Các đợt tăng vốn ồ ạt hiện nay chính là bước chuẩn bị cho lộ trình áp dụng Basel III, sẵn sàng đáp ứng các tiêu chuẩn cao hơn trong tương lai, qua đó nâng cao uy tín và xếp hạng tín nhiệm ngân hàng trên thị trường quốc tế.

Một lý do khác thúc đẩy các ngân hàng tăng vốn điều lệ xuất phát từ sự mất cân đối về kỳ hạn giữa huy động và cho vay. Nguồn vốn huy động chính của các ngân hàng là tiền gửi tiết kiệm ngắn hạn (dưới 12 tháng) từ dân cư. Trong khi đó, nhu cầu vay của nền kinh tế lại tập trung nhiều vào các khoản vay trung và dài hạn (trên 12 tháng) để đầu tư vào tài sản cố định, máy móc, nhà xưởng, hoặc các dự án bất động sản.

Để kiểm soát rủi ro thanh khoản, NHNN đã ban hành Thông tư 22/2019/TT-NHNN (sửa đổi bởi Thông tư 08/2020/TT-NHNN), quy định lộ trình siết chặt tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung và dài hạn, giảm dần qua các năm và hiện đang ở mức 30%.

Theo tỷ lệ này, để cho vay 100 đồng vốn trung dài hạn, ngân hàng phải có ít nhất 70 đồng vốn trung dài hạn đối ứng (từ tiền gửi trên 12 tháng, phát hành trái phiếu, và vốn chủ sở hữu). Khi tỷ lệ này bị siết lại, các ngân hàng không thể tiếp tục dùng vốn huy động ngắn hạn để gánh các khoản vay dài hạn như trước. Lúc này, vốn điều lệ đóng vai trò quan trọng vì là nguồn vốn ổn định, có tính chất dài hạn, không phải hoàn trả. Bằng cách tăng vốn điều lệ, các ngân hàng ngay lập tức có thêm nguồn vốn dài hạn "thật", giúp giải phóng room để cấp tín dụng trung và dài hạn cho nền kinh tế mà không vi phạm quy định.

Rủi ro sụt giảm ROE

Mặc dù việc tăng vốn điều lệ là tất yếu và mang lại lợi ích dài hạn, nhưng cũng tạo ra không ít thách thức cho các ngân hàng nếu không quản trị rủi ro.

Đối với cổ đông, thách thức lớn nhất là hiện tượng pha loãng. Khi ngân hàng phát hành thêm cổ phiếu, số lượng cổ phiếu lưu hành tăng lên, làm giảm tỷ lệ sở hữu và có thể gây pha loãng lợi nhuận trên mỗi cổ phần (EPS) trong ngắn hạn.

Đối với bản thân ngân hàng, thách thức nằm ở áp lực duy trì khả năng sinh lời (ROE). Khi vốn chủ sở hữu tăng lên, ngân hàng phải tạo ra lợi nhuận tăng trưởng tương xứng, nếu không chỉ số ROE sẽ bị giảm đi, làm giảm sức hấp dẫn trong mắt nhà đầu tư. Hơn nữa, việc tìm kiếm nhà đầu tư chiến lược nước ngoài để phát hành riêng lẻ cũng không dễ trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu và các quy định về room ngoại.

Nhìn chung, làn sóng tăng vốn này sẽ định hình lại bức tranh ngành ngân hàng. Những ngân hàng thành công trong việc tăng vốn sẽ có năng lực tài chính, có nhiều room để tăng trưởng tín dụng, đầu tư mạnh mẽ vào chuyển đổi số và có khả năng chống chịu rủi ro tốt hơn. Ngược lại, những ngân hàng chậm chân trong cuộc đua này có thể ở lại phía sau, gặp khó khăn trong việc mở rộng quy mô, cạnh tranh và cả xếp hạng tín nhiệm.

- 12:00 02/12/2025


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết